CIVIL MATTER 2004 – MP Law Firm https://mplaw.vn/en - Công ty luật hợp danh MP Wed, 05 Aug 2020 08:52:12 +0000 en-US hourly 1 https://wordpress.org/?v=5.4.16 Bộ luật tố tụng dân sự số: 24/2004/QH11 https://mplaw.vn/en/bo-luat-to-tung-dan-su-so-242004qh11/ Fri, 03 Nov 2017 15:00:05 +0000 http://law.imm.fund/?p=1098 QUỐC HỘI Số: 24/2004/QH11 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hà Nội, ngày 15 tháng 06 năm 2004 BỘ LUẬT Tố tụng dân sự Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo […]

The post Bộ luật tố tụng dân sự số: 24/2004/QH11 appeared first on MP Law Firm.

]]>
QUỐC HỘI
Số: 24/2004/QH11
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 15 tháng 06 năm 2004

BỘ LUẬT

Tố tụng dân sự

Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Bộ luật này quy định trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.

Phần thứ nhất
Những quy định chung

Chương I
Nhiệm vụ và hiệu lực của bộ luật tố tụng dân sự

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng dân sự
Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Toà án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Toà án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Toà án; thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức) có liên quan nhằm bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật.
Bộ luật tố tụng dân sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Điều 2. Hiệu lực của Bộ luật tố tụng dân sự
1. Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối với mọi hoạt động tố tụng dân sự trên toàn lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối với mọi hoạt động tố tụng dân sự do cơ quan Lãnh sự của Việt Nam tiến hành ở nước ngoài.
3. Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài thuộc đối tượng được hưởng các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao hoặc các quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập thì vụ việc dân sự có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức đó được giải quyết bằng con đường ngoại giao.

Chương II
Những nguyên tắc cơ bản

Điều 3. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự
Mọi hoạt động tố tụng dân sự của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuân theo các quy định của Bộ luật này.
Điều 4. Quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.
Điều 5. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự
1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Điều 6. Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.
2. Toà án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định.
Điều 7. Trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đương sự, Toà án chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ.
Điều 8. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác.
Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Điều 9. Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự
Đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Toà án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ.
Điều 10. Hoà giải trong tố tụng dân sự
Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.
Điều 11. Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự
Việc xét xử các vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.
Điều 12. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Khi xét xử vụ án dân sự, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ.
Điều 13. Trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự
1. Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.
2. Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp người tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
3. Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của các đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ.
4. Người tiến hành tố tụng dân sự có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thì Toà án phải bồi thường cho người bị thiệt hại và người tiến hành tố tụng có trách nhiệm bồi hoàn cho Toà án theo quy định của pháp luật.
Điều 14. Toà án xét xử tập thể
Toà án xét xử tập thể vụ án dân sự và quyết định theo đa số.
Điều 15. Xét xử công khai
1. Việc xét xử vụ án dân sự của Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định.
2. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.
Điều 16. Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng dân sự
Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, người phiên dịch, người giám định không được tiến hành hoặc tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Điều 17. Thực hiện chế độ hai cấp xét xử
1. Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật; đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
2. Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của Bộ luật này.
Điều 18. Giám đốc việc xét xử
Toà án cấp trên giám đốc việc xét xử của Toà án cấp dưới, Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án các cấp để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất.
Điều 19. Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án
Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được mọi công dân, cơ quan, tổ chức tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Toà án nhân dân và các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó.
Điều 20. Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự
Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự là tiếng Việt.
Người tham gia tố tụng dân sự có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này cần phải có người phiên dịch.
Điều 21. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà đối với những vụ án do Toà án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Toà án.
Điều 22. Trách nhiệm chuyển giao tài liệu, giấy tờ của Toà án
1. Toà án có trách nhiệm chuyển giao trực tiếp hoặc qua bưu điện bản án, quyết định, giấy triệu tập, giấy mời và các giấy tờ khác của Toà án liên quan đến người tham gia tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp Toà án chuyển giao trực tiếp không được hoặc qua bưu điện không có kết quả thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp xã) nơi người tham gia tố tụng dân sự cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người tham gia tố tụng dân sự làm việc có trách nhiệm chuyển giao bản án, quyết định, giấy triệu tập, giấy mời và các giấy tờ khác của Toà án liên quan đến người tham gia tố tụng dân sự khi có yêu cầu của Toà án và phải thông báo kết quả việc chuyển giao đó cho Toà án biết.
Điều 23. Việc tham gia tố tụng dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật này, góp phần vào việc giải quyết vụ việc dân sự tại Toà án kịp thời, đúng pháp luật.
Điều 24. Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự hoặc của bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào trong hoạt động tố tụng dân sự.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết cho người đã khiếu nại, tố cáo biết.

Chương III
Thẩm quyền của Toà án

Mục 1
Những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền
giải quyết của Toà án

Điều 25. Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
1. Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.
3. Tranh chấp về hợp đồng dân sự.
4. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 29 của Bộ luật này.
5. Tranh chấp về thừa kế tài sản.
6. Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
7. Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
8. Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật.
9. Các tranh chấp khác về dân sự mà pháp luật có quy định.
Điều 26. Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
1. Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
2. Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó.
3. Yêu cầu tuyên bố một người mất tích, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích.
4. Yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết.
5. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
6. Các yêu cầu khác về dân sự mà pháp luật có quy định.
Điều 27. Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
2. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
3. Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
4. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.
5. Tranh chấp về cấp dưỡng.
6. Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
Điều 28. Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
1. Yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
2. Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
3. Yêu cầu công nhận sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
4. Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn.
5. Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
6. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
7. Các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
Điều 29. Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:
a) Mua bán hàng hoá;
b) Cung ứng dịch vụ;
c) Phân phối;
d) Đại diện, đại lý;
đ) Ký gửi;
e) Thuê, cho thuê, thuê mua;
g) Xây dựng;
h) Tư vấn, kỹ thuật;
i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa;
k) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
l) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;
m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng;
n) Bảo hiểm;
o) Thăm dò, khai thác.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
4. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Điều 30. Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
1. Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
2. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
3. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài.
4. Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Điều 31. Những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
1. Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động mà Hội đồng hoà giải lao động cơ sở, hoà giải viên lao động của cơ quan quản lý nhà nước về lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoà giải không thành hoặc không giải quyết trong thời hạn do pháp luật quy định, trừ các tranh chấp sau đây không nhất thiết phải qua hoà giải tại cơ sở:
a) Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;
b) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động và người sử dụng lao động; về trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
c) Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;
d) Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về lao động;
đ) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
2. Tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động đã được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài lao động, bao gồm:
a) Về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác;
b) Về việc thực hiện thoả ước lao động tập thể;
c) Về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn.
3. Các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy định.
Điều 32. Những yêu cầu về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
1. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định lao động của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định lao động của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
2. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định lao động của Trọng tài nước ngoài.
3. Các yêu cầu khác về lao động mà pháp luật có quy định.

Mục 2
Thẩm quyền của Toà án các cấp

Điều 33. Thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Toà án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này;
b) Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h và i khoản 1 Điều 29 của Bộ luật này;
c) Tranh chấp về lao động quy định tại khoản 1 Điều 31 của Bộ luật này.
2. Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những yêu cầu sau đây:
a) Yêu cầu về dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 26 của Bộ luật này;
b) Yêu cầu về hôn nhân và gia đình quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 28 của Bộ luật này.
3. Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện.
Điều 34. Thẩm quyền của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
1. Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Toà án nhân dân cấp tỉnh) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này, trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 Điều 33 của Bộ luật này;
b) yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 2 Điều 33 của Bộ luật này;
c) Tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 33 của Bộ luật này.
2. Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 33 của Bộ luật này mà Toà án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết.
Điều 35. Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ
1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau:
a) Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
b) Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
c) Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản.
2. Thẩm quyền giải quyết việc dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau:
a) Toà án nơi người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
b) Toà án nơi người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm vắng mặt tại nơi cư trú, bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc là đã chết có nơi cư trú cuối cùng có thẩm quyền giải quyết yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó, yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết;
c) Toà án đã ra quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết có thẩm quyền giải quyết yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất tích hoặc là đã chết;
d) Toà án nơi người phải thi hành bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành án là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành án có trụ sở, nếu người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Toà án nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án nước ngoài;
đ) Toà án nơi người gửi đơn cư trú, làm việc, nếu người gửi đơn là cá nhân hoặc nơi người gửi đơn có trụ sở, nếu người gửi đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam;
e) Toà án nơi người phải thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành có trụ sở, nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài;
g) Toà án nơi việc đăng ký kết hôn trái pháp luật được thực hiện có thẩm quyền giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật;
h) Toà án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;
i) Toà án nơi một trong các bên thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;
k) Toà án nơi cha hoặc mẹ của con chưa thành niên cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn;
l) Toà án nơi cha, mẹ nuôi hoặc con nuôi cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi;
m) Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ giải quyết các yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
Điều 36. Thẩm quyền của Toà án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu
1. Nguyên đơn có quyền lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong các trường hợp sau đây:
a) Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết;
b) Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết;
c) Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ án về tranh chấp việc cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết;
d) Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết;
đ) Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội, quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác đối với người lao động thì nguyên đơn là người lao động có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết;
e) Nếu tranh chấp phát sinh từ việc sử dụng lao động của người cai thầu hoặc người có vai trò trung gian thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi người sử dụng lao động là chủ chính cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi người cai thầu, người có vai trò trung gian cư trú, làm việc giải quyết;
g) Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết;
h) Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết;
i) Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có một trong các bất động sản giải quyết.
2. Người yêu cầu có quyền lựa chọn Toà án giải quyết yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình trong các trường hợp sau đây:
a) Đối với các yêu cầu về dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 26 của Bộ luật này thì người yêu cầu có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc hoặc có trụ sở giải quyết;
b) Đối với yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật này thì người yêu cầu có thể yêu cầu Toà án nơi một trong các bên đăng ký kết hôn trái pháp luật giải quyết;
c) Đối với yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn thì người yêu cầu có thể yêu cầu Toà án nơi người con cư trú giải quyết.
Điều 37. Chuyển vụ việc dân sự cho Toà án khác, giải quyết tranh chấp về thẩm quyền
1. Vụ việc dân sự đã được thụ lý mà không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án đã thụ lý thì Toà án đó ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Toà án có thẩm quyền và xoá sổ thụ lý. Quyết định này phải được gửi ngay cho đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan.
Đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan có quyền khiếu nại quyết định này trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án Toà án đã ra quyết định chuyển vụ việc dân sự phải giải quyết khiếu nại.
2. Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Toà án nhân dân cấp huyện trong cùng một tỉnh do Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết.
3. Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Toà án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các Toà án nhân dân cấp tỉnh do Chánh án Toà án nhân dân tối cao giải quyết.
Điều 38. Nhập hoặc tách vụ án
1. Toà án có thể nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Toà án đó đã thụ lý riêng biệt thành một vụ án để giải quyết nếu việc nhập và việc giải quyết trong cùng một vụ án bảo đảm đúng pháp luật.
2. Toà án có thể tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều vụ án nếu việc tách và việc giải quyết các vụ án được tách bảo đảm đúng pháp luật.
3. Khi nhập hoặc tách vụ án quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, Toà án đã thụ lý vụ án phải ra quyết định và gửi ngay cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.

Chương IV
Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng
và việc thay đổi người tiến hành tố tụng

Điều 39. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
1. Các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có:
a) Toà án nhân dân;
b) Viện kiểm sát nhân dân.
2. Những người tiến hành tố tụng gồm có:
a) Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án;
b) Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên.
Điều 40. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Toà án
1. Chánh án Toà án có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Tổ chức công tác giải quyết các vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của Toà án;
b) Quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ việc dân sự, Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử vụ án dân sự; quyết định phân công Thư ký Toà án tiến hành tố tụng đối với vụ việc dân sự;
c) Quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án trước khi mở phiên toà;
d) Quyết định thay đổi người giám định, người phiên dịch trước khi mở phiên toà;
đ) Ra các quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật này;
e) Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Bộ luật này;
g) Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án theo quy định của Bộ luật này.
2. Khi Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được Chánh án uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án quy định tại khoản 1 Điều này. Phó Chánh án chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao.
Điều 41. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
1. Tiến hành lập hồ sơ vụ án.
2. Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
3. Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự.
4. Tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật này; ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
5. Quyết định đưa vụ án dân sự ra xét xử, đưa việc dân sự ra giải quyết.
6. Quyết định triệu tập những người tham gia phiên toà.
7. Tham gia xét xử các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự.
8. Tiến hành các hoạt động tố tụng khác khi giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.
Điều 42. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội thẩm nhân dân
1. Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên toà.
2. Đề nghị Chánh án Toà án, Thẩm phán ra các quyết định cần thiết thuộc thẩm quyền.
3. Tham gia xét xử các vụ án dân sự.
4. Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử khi xét xử vụ án dân sự.
Điều 43. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Toà án
1. Chuẩn bị các công tác nghiệp vụ cần thiết trước khi khai mạc phiên toà.
2. Phổ biến nội quy phiên toà.
3. Báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được triệu tập đến phiên toà.
4. Ghi biên bản phiên toà.
5. Thực hiện các hoạt động tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.
Điều 44. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát
1. Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự;
b) Quyết định phân công Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng, tham gia phiên toà xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này;
c) Kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng của Kiểm sát viên;
d) Quyết định thay đổi Kiểm sát viên;
đ) Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án theo quy định của Bộ luật này;
e) Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Bộ luật này.
2. Khi Viện trưởng vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng quy định tại khoản 1 Điều này. Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ được giao.
Điều 45. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên
Khi được phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự, Kiểm sát viên có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự của Toà án;
2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
3. Kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án;
4. Tham gia phiên toà xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc dân sự;
5. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát.
Điều 46. Những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng
Người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:
1. Họ đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự;
2. Họ đã tham gia với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ án đó;
3. Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
Điều 47. Thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:
1. Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 46 của Bộ luật này;
2. Họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau;
3. Họ đã tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án đó, trừ trường hợp là thành viên của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh thì vẫn được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;
4. Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm sát viên, Thư ký Toà án.
Điều 48. Thay đổi Kiểm sát viên
Kiểm sát viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:
1. Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 46 của Bộ luật này;
2. Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án.
Điều 49. Thay đổi Thư ký Toà án
Thư ký Toà án phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:
1. Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 46 của Bộ luật này;
2. Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án.
Điều 50. Thủ tục từ chối tiến hành tố tụng hoặc đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng
1. Việc từ chối tiến hành tố tụng hoặc đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng trước khi mở phiên toà phải được lập thành văn bản, trong đó nêu rõ lý do và căn cứ của việc từ chối tiến hành tố tụng hoặc của việc đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng.
2. Việc từ chối tiến hành tố tụng hoặc đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên toà.
Điều 51. Quyết định việc thay đổi người tiến hành tố tụng
1. Trước khi mở phiên toà, việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án do Chánh án Toà án quyết định; nếu Thẩm phán bị thay đổi là Chánh án Toà án thì do Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp quyết định.
Trước khi mở phiên toà, việc thay đổi Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định; nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.
2. Tại phiên toà, việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên do Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi. Hội đồng xét xử thảo luận tại phòng nghị án và quyết định theo đa số.
Trong trường hợp phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà. Việc cử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án thay thế người bị thay đổi do Chánh án Toà án quyết định; nếu người bị thay đổi là Chánh án Toà án thì do Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp quyết định. Việc cử Kiểm sát viên thay thế Kiểm sát viên bị thay đổi do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định; nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.

Chương V
Thành phần giải quyết vụ việc dân sự

Điều 52. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân.
Điều 53. Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự gồm ba Thẩm phán.
Điều 54. Thành phần Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự
1. Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm Toà án nhân dân cấp tỉnh là Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Khi Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh tiến hành giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia.
2. Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm Toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao gồm có ba Thẩm phán.
3. Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm Toà án nhân dân tối cao là Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Khi Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tiến hành giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia.
Điều 55. Thành phần giải quyết việc dân sự
1. Những yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại khoản 5 Điều 26, khoản 6 Điều 28, khoản 2 và khoản 3 Điều 30, Điều 32 của Bộ luật này hoặc việc xét kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định giải quyết việc dân sự do một tập thể gồm ba Thẩm phán giải quyết.
2. Những yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này do một Thẩm phán giải quyết.
3. Thành phần giải quyết những yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật này được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.

Chương VI
Người tham gia tố tụng

Mục 1
Đương sự trong vụ án dân sự

Điều 56. Đương sự trong vụ án dân sự
1. Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
2. Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.
Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn.
3. Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Toà án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trong trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Toà án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Điều 57. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự
1. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự.
3. Đương sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, trừ người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác.
4. Đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Toà án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
5. Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Toà án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
6. Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Trong trường hợp này, Toà án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ tại Toà án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
7. Đương sự là cơ quan, tổ chức do người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng.
Điều 58. Quyền, nghĩa vụ của đương sự
1. Các đương sự có các quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng.
2. Khi tham gia tố tụng, đương sự có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
b) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Toà án;
c) Đề nghị Toà án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được hoặc đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá; khiếu nại với Viện kiểm sát về những chứng cứ mà Toà án đã xác minh, thu thập do đương sự khác yêu cầu;
d) Được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Toà án thu thập;
đ) Đề nghị Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
e) Tự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hoà giải do Toà án tiến hành;
g) Nhận thông báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình;
h) Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
i) Tham gia phiên toà;
k) Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này;
l) Đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với nhân chứng;
m) Tranh luận tại phiên toà;
n) Được cấp trích lục bản án, quyết định của Toà án;
o) Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Toà án theo quy định của Bộ luật này;
p) Phát hiện và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật;
q) Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án và chấp hành các quyết định của Toà án trong thời gian giải quyết vụ án;
r) Tôn trọng Toà án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà;
s) Nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật;
t) Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật;
u) Các quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định.
Điều 59. Quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn
1. Nguyên đơn có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 58 của Bộ luật này;
b) Rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện;
c) Đề nghị Toà án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng;
d) Đề nghị Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
2. Nguyên đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện.
Điều 60. Quyền, nghĩa vụ của bị đơn
1. Bị đơn có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 58 của Bộ luật này;
b) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; bác bỏ toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn;
c) Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu;
d) Được Toà án thông báo về việc bị khởi kiện.
2. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án giải quyết vắng mặt bị đơn.
Điều 61. Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 58 của Bộ luật này;
b) Có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn.
2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì có các quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 59 của Bộ luật này.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc chỉ có quyền lợi thì có các quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 59 của Bộ luật này.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên bị đơn hoặc chỉ có nghĩa vụ thì có các quyền, nghĩa vụ của bị đơn quy định tại Điều 60 của Bộ luật này.
Điều 62. Kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng
1. Trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng.
2. Trường hợp đương sự là cơ quan, tổ chức đang tham gia tố tụng phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự đó được xác định như sau:
a) Trường hợp tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh thì cá nhân, tổ chức là thành viên của tổ chức đó hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng;
b) Trường hợp cơ quan, tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, doanh nghiệp nhà nước thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức cấp trên của cơ quan, tổ chức đó hoặc đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức được giao tiếp nhận các quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó tham gia tố tụng;
c) Trường hợp tổ chức hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì cá nhân, tổ chức nào tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của tổ chức đó tham gia tố tụng.
3. Trường hợp đương sự là tổ chức không phải là pháp nhân mà người đại diện hoặc người quản lý đang tham gia tố tụng chết thì tổ chức đó phải cử người khác làm đại diện để tham gia tố tụng; nếu tổ chức đó phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể thì cá nhân là thành viên của tổ chức đó tham gia tố tụng.

Mục 2
Những người tham gia tố tụng khác

Điều 63. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
1. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được Toà án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
2. Những người sau đây được Toà án chấp nhận làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:
a) Luật sư tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật về luật sư;
b) Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, chưa bị kết án hoặc bị kết án nhưng đã được xoá án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục và quản chế hành chính; không phải là cán bộ, công chức trong các ngành Toà án, Kiểm sát, Công an.
3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của những người đó không đối lập nhau. Nhiều người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể cùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một đương sự trong vụ án.
Điều 64. Quyền, nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
1. Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng dân sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm nếu Toà án xét thấy cần thiết.
2. Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
3. Tham gia việc hoà giải, tham gia phiên toà hoặc có văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
4. Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.
5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
6. Các quyền, nghĩa vụ quy định tại các điểm m, q và r khoản 2 Điều 58 của Bộ luật này.
Điều 65. Người làm chứng
Người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ án có thể được Toà án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Người mất năng lực hành vi dân sự không thể là người làm chứng.
Điều 66. Quyền, nghĩa vụ của người làm chứng
1. Cung cấp toàn bộ những thông tin, tài liệu, đồ vật mà mình có được có liên quan đến việc giải quyết vụ án.
2. Khai báo trung thực những tình tiết mà mình biết được có liên quan đến việc giải quyết vụ án.
3. Được từ chối khai báo nếu lời khai của mình liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư hoặc việc khai báo đó có ảnh hưởng xấu, bất lợi cho đương sự là người có quan hệ thân thích với mình.
4. Được nghỉ việc trong thời gian Toà án triệu tập hoặc lấy lời khai, nếu làm việc trong cơ quan, tổ chức.
5. Được hưởng các khoản phí đi lại và các chế độ khác theo quy định của pháp luật.
6. Yêu cầu Toà án đã triệu tập, cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng; khiếu nại hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng.
7. Bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm trước pháp luật do những lời khai báo sai sự thật gây thiệt hại cho đương sự hoặc cho người khác.
8. Phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, nếu việc lấy lời khai của người làm chứng phải thực hiện công khai tại phiên toà; trường hợp người làm chứng không đến phiên toà mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc xét xử thì Hội đồng xét xử có thể ra quyết định dẫn giải người làm chứng đến phiên toà.
9. Phải cam đoan trước Toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, trừ người làm chứng là người chưa thành niên. Người làm chứng khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, từ chối khai báo hoặc khi được Toà án triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Điều 67. Người giám định
Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định được các bên đương sự thoả thuận lựa chọn hoặc được Toà án trưng cầu để giám định đối tượng đó theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự.
Điều 68. Quyền, nghĩa vụ của người giám định
1. Người giám định có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Được đọc các tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến đối tượng giám định; yêu cầu Toà án cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc giám định;
b) Đặt câu hỏi đối với người tham gia tố tụng về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định;
c) Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án, trả lời những vấn đề liên quan đến việc giám định và kết luận giám định một cách trung thực, có căn cứ, khách quan;
d) Phải thông báo bằng văn bản cho Toà án biết về việc không thể giám định được do việc cần giám định vượt quá khả năng chuyên môn, tài liệu cung cấp phục vụ cho việc giám định không đủ hoặc không sử dụng được;
đ) Phải bảo quản tài liệu đã nhận và gửi trả lại Toà án cùng với kết luận giám định hoặc cùng với thông báo về việc không thể giám định được;
e) Không được tự mình thu thập tài liệu để tiến hành giám định, tiếp xúc với những người tham gia tố tụng khác nếu việc tiếp xúc đó làm ảnh hưởng đến kết quả giám định; không được tiết lộ bí mật thông tin mà mình biết khi tiến hành giám định hoặc thông báo kết quả giám định cho người khác, trừ trường hợp Thẩm phán quyết định trưng cầu giám định;
g) Được hưởng các khoản phí đi lại và các chế độ khác theo quy định của pháp luật;
h) Phải cam đoan trước Toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
2. Người giám định từ chối kết luận giám định mà không có lý do chính đáng hoặc kết luận giám định sai sự thật hoặc khi được Toà án triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
3. Người giám định phải từ chối hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:
a) Thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 46 của Bộ luật này;
b) Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch trong cùng vụ án đó;
c) Họ đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên.
Điều 69. Người phiên dịch
Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt. Người phiên dịch được các bên đương sự thoả thuận lựa chọn và được Toà án chấp nhận hoặc được Toà án yêu cầu để phiên dịch.
Điều 70. Quyền, nghĩa vụ của người phiên dịch
1. Người phiên dịch có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;
b) Phải phiên dịch trung thực, khách quan, đúng nghĩa;
c) Đề nghị người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng giải thích thêm lời nói cần phiên dịch;
d) Không được tiếp xúc với những người tham gia tố tụng khác nếu việc tiếp xúc đó làm ảnh hưởng đến tính trung thực, khách quan, đúng nghĩa khi phiên dịch;
đ) Được hưởng các khoản phí đi lại và các chế độ khác theo quy định của pháp luật;
e) Phải cam đoan trước Toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
2. Người phiên dịch cố ý dịch sai sự thật hoặc khi được Toà án triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
3. Người phiên dịch phải từ chối hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:
a) Thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 46 của Bộ luật này;
b) Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định trong cùng vụ án đó;
c) Họ đã tiến hành tố tụng với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên.
4. Những quy định của Điều này cũng được áp dụng đối với người biết dấu hiệu của người câm, người điếc.
Trong trường hợp chỉ có người đại diện hoặc người thân thích của người câm, người điếc biết được dấu hiệu của họ thì người đại diện hoặc người thân thích có thể được Toà án chấp nhận làm phiên dịch cho người câm, người điếc đó.
Điều 71. Thủ tục từ chối giám định, phiên dịch hoặc đề nghị thay đổi người giám định, người phiên dịch
1. Việc từ chối giám định, phiên dịch hoặc đề nghị thay đổi người giám định, người phiên dịch trước khi mở phiên toà phải được lập thành văn bản nêu rõ lý do của việc từ chối hoặc đề nghị thay đổi.
2. Việc từ chối giám định, phiên dịch hoặc đề nghị thay đổi người giám định, người phiên dịch tại phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên toà.
Điều 72. Quyết định việc thay đổi người giám định, người phiên dịch
1. Trước khi mở phiên toà, việc thay đổi người giám định, người phiên dịch do Chánh án Toà án quyết định.
2. Tại phiên toà, việc thay đổi người giám định, người phiên dịch do Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi. Hội đồng xét xử thảo luận tại phòng nghị án và quyết định theo đa số.
Trong trường hợp phải thay đổi người giám định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà. Việc trưng cầu người giám định khác hoặc thay người phiên dịch khác được thực hiện theo quy định tại Điều 67 và Điều 69 của Bộ luật này.
Điều 73. Người đại diện
1. Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo uỷ quyền.
2. Người đại diện theo pháp luật được quy định trong Bộ luật dân sự là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp bị hạn chế quyền đại diện theo quy định của pháp luật.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng là đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của người được bảo vệ.
3. Người đại diện theo uỷ quyền được quy định trong Bộ luật dân sự là người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự; đối với việc ly hôn, đương sự không được uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng.
Điều 74. Quyền, nghĩa vụ của người đại diện
1. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự mà mình là đại diện.
2. Người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản uỷ quyền.
Điều 75. Những trường hợp không được làm người đại diện
1. Những người sau đây không được làm người đại diện theo pháp luật:
a) Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ án với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện;
b) Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự.
3. Cán bộ, công chức trong các ngành Toà án, Kiểm sát, Công an không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật.
Điều 76. Chỉ định người đại diện trong tố tụng dân sự
Trong khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 75 của Bộ luật này thì Toà án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng tại Toà án.
Điều 77. Chấm dứt đại diện trong tố tụng dân sự
Người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự chấm dứt việc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự.
Điều 78. Hậu quả của việc chấm dứt đại diện trong tố tụng dân sự
1. Trong trường hợp chấm dứt đại diện theo pháp luật mà người được đại diện đã thành niên hoặc đã khôi phục năng lực hành vi dân sự thì người đó tự mình tham gia tố tụng dân sự hoặc uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng dân sự theo thủ tục do Bộ luật này quy định.
2. Trong trường hợp chấm dứt đại diện theo uỷ quyền thì đương sự hoặc người thừa kế của đương sự trực tiếp tham gia tố tụng hoặc uỷ quyền cho người khác đại diện tham gia tố tụng theo thủ tục do Bộ luật này quy định.

Chương VII
Chứng minh và Chứng cứ

Điều 79. Nghĩa vụ chứng minh
1. Đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.
3. Cá nhân, cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.
Điều 80. Những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh
1. Những tình tiết, sự kiện sau đây không phải chứng minh:
a) Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Toà án thừa nhận;
b) Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật;
c) Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp.
2. Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh.
3. Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự.
Điều 81. Chứng cứ
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Toà án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
Điều 82. Nguồn chứng cứ
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được;
2. Các vật chứng;
3. Lời khai của đương sự;
4. Lời khai của người làm chứng;
5. Kết luận giám định;
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;
7. Tập quán;
8. Kết quả định giá tài sản;
9. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Điều 83. Xác định chứng cứ
1. Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
2. Các tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
3. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
4. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên toà.
5. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và có chữ ký của các thành viên tham gia thẩm định.
7. Tập quán được coi là chứng cứ nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận.
8. Kết quả định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá được tiến hành theo thủ tục do pháp luật quy định hoặc văn bản do chuyên gia về giá cả cung cấp theo quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều 84. Giao nộp chứng cứ
1. Trong quá trình Toà án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Toà án; nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Việc đương sự giao nộp chứng cứ cho Toà án phải được lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Toà án. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ giữ.
3. Đương sự giao nộp cho Toà án chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
Điều 85. Thu thập chứng cứ
1. Trong trường hợp xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ.
2. Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập chứng cứ:
a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;
b) Trưng cầu giám định;
c) Quyết định định giá tài sản;
d) Xem xét, thẩm định tại chỗ;
đ) Uỷ thác thu thập chứng cứ;
e) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự.
3. Khi tiến hành các biện pháp quy định tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 2 Điều này, Thẩm phán phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Toà án.
Đương sự có quyền khiếu nại quyết định áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ của Toà án. Khiếu nại của đương sự phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ trên cơ sở khiếu nại của đương sự và xem xét việc tham gia phiên toà.
Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Điều 86. Lấy lời khai của đương sự
1. Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trong trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự. Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết mà đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Toà án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản. Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại trụ sở Toà án, trong trường hợp cần thiết có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Toà án.
2. Biên bản ghi lời khai của đương sự phải được người khai tự đọc lại hay nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ. Đương sự có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận. Biên bản phải có chữ ký của người lấy lời khai, người ghi biên bản và đóng dấu của Toà án; nếu biên bản được ghi thành nhiều trang rời nhau thì phải ký vào từng trang và đóng dấu giáp lai. Trường hợp biên bản ghi lời khai của đương sự được lập ngoài trụ sở Toà án thì phải có người làm chứng hoặc xác nhận của Uỷ ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản.
3. Việc lấy lời khai của đương sự thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 57 của Bộ luật này phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện hợp pháp của đương sự đó.
Điều 87. Lấy lời khai của người làm chứng
1. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của người làm chứng tại trụ sở Toà án hoặc ngoài trụ sở Toà án.
2. Thủ tục lấy lời khai của người làm chứng được tiến hành như việc lấy lời khai của đương sự quy định tại khoản 2 Điều 86 của Bộ luật này.
3. Việc lấy lời khai của người làm chứng chưa đủ mười tám tuổi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện theo pháp luật hoặc người đang thực hiện việc quản lý, trông nom người đó.
Điều 88. Đối chất
1. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng, Thẩm phán tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng với nhau.
2. Việc đối chất phải được ghi thành biên bản, có chữ ký của những người tham gia đối chất.
Điều 89. Xem xét, thẩm định tại chỗ
1. Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải do Thẩm phán tiến hành với sự có mặt của đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và phải báo trước việc xem xét, thẩm định tại chỗ để đương sự biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm định đó.
2. Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải được ghi thành biên bản. Biên bản phải ghi rõ kết quả xem xét, thẩm định, mô tả rõ hiện trường, có chữ ký của người xem xét, thẩm định và chữ ký hoặc điểm chỉ của đương sự nếu họ có mặt, của đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và những người khác được mời tham gia việc xem xét, thẩm định. Sau khi lập xong biên bản, người xem xét, thẩm định phải yêu cầu đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định ký tên và đóng dấu xác nhận.
Điều 90. Trưng cầu giám định
1. Theo sự thoả thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, những vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định.
2. Người giám định nhận được quyết định trưng cầu giám định phải tiến hành giám định theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại. Việc giám định lại có thể do người đã tiến hành giám định trước đó thực hiện hoặc do tổ chức chuyên môn khác thực hiện theo quy định của pháp luật.
Điều 91. Trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo
1. Trong trường hợp chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì người đưa ra chứng cứ đó có quyền rút lại; nếu không rút lại, người tố cáo có quyền yêu cầu Toà án trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 90 của Bộ luật này.
2. Trường hợp việc giả mạo chứng cứ có dấu hiệu tội phạm thì Toà án chuyển cho Cơ quan điều tra hình sự có thẩm quyền.
3. Người đưa ra chứng cứ giả mạo phải bồi thường thiệt hại nếu việc giả mạo chứng cứ đó gây thiệt hại cho người khác.
Điều 92. Định giá tài sản
1. Toà án ra quyết định định giá tài sản đang tranh chấp trong các trường hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;
b) Các bên thoả thuận theo mức giá thấp nhằm mục đích trốn thuế hoặc giảm mức đóng án phí.
2. Hội đồng định giá do Toà án quyết định thành lập gồm Chủ tịch Hội đồng và các thành viên là đại diện cơ quan tài chính và các cơ quan chuyên môn có liên quan. Hội đồng định giá chỉ tiến hành định giá khi có mặt đầy đủ các thành viên của Hội đồng. Trong trường hợp cần thiết, đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá được mời chứng kiến việc định giá. Các đương sự được thông báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành định giá, có quyền tham dự và phát biểu ý kiến về việc định giá. Quyền quyết định về giá đối với tài sản định giá thuộc Hội đồng định giá.
3. Cơ quan tài chính và các cơ quan chuyên môn có liên quan có trách nhiệm cử người tham gia Hội đồng định giá và tạo điều kiện để họ làm nhiệm vụ. Người được cử làm thành viên Hội đồng định giá có trách nhiệm tham gia đầy đủ vào việc định giá.
4. Việc định giá phải được ghi thành biên bản, trong đó ghi rõ ý kiến của từng thành viên, của đương sự nếu họ tham dự. Quyết định của Hội đồng định giá phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành. Các thành viên Hội đồng định giá, đương sự, người chứng kiến ký tên vào biên bản.
Điều 93. Uỷ thác thu thập chứng cứ
1. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Toà án có thể ra quyết định uỷ thác để Toà án khác hoặc cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 4 Điều này lấy lời khai của đương sự, của người làm chứng, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản hoặc các biện pháp khác để thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết của vụ việc dân sự.
2. Trong quyết định uỷ thác phải ghi rõ tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, quan hệ tranh chấp và những công việc cụ thể uỷ thác để thu thập chứng cứ.
3. Toà án nhận được quyết định uỷ thác có trách nhiệm thực hiện công việc cụ thể được uỷ thác trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định uỷ thác và thông báo kết quả bằng văn bản cho Toà án đã ra quyết định uỷ thác; trường hợp không thực hiện được việc uỷ thác thì phải thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do của việc không thực hiện được việc uỷ thác cho Toà án đã ra quyết định uỷ thác.
4. Trong trường hợp việc thu thập chứng cứ phải tiến hành ở ngoài lãnh thổ Việt Nam thì Toà án làm thủ tục uỷ thác thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc các cơ quan tiến hành tố tụng dân sự của nước ngoài mà nước đó và Việt Nam đã ký kết hiệp định tương trợ tư pháp hoặc cùng Việt Nam gia nhập điều ước quốc tế có quy định về vấn đề này.
Điều 94. Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ
1. Trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Toà án tiến hành thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn.
Đương sự yêu cầu Toà án tiến hành thu thập chứng cứ phải làm đơn ghi rõ vấn đề cần chứng minh; chứng cứ cần thu thập; lý do vì sao tự mình không thu thập được; họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cần thu thập đó.
2. Toà án có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ cung cấp cho mình chứng cứ.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Toà án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Điều 95. Bảo quản chứng cứ
1. Chứng cứ đã được giao nộp tại Toà án thì việc bảo quản chứng cứ đó do Toà án chịu trách nhiệm.
2. Chứng cứ không thể giao nộp được tại Toà án thì người đang lưu giữ chứng cứ đó có trách nhiệm bảo quản.
3. Trong trường hợp cần giao chứng cứ cho người thứ ba bảo quản thì Thẩm phán ra quyết định và lập biên bản giao cho người đó bảo quản. Người nhận bảo quản phải ký tên vào biên bản, được hưởng thù lao và phải chịu trách nhiệm về việc bảo quản chứng cứ đó.
Điều 96. Đánh giá chứng cứ
1. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác.
2. Toà án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định giá trị pháp lý của từng chứng cứ.
Điều 97. Công bố và sử dụng chứng cứ
1. Mọi chứng cứ được công bố và sử dụng công khai như nhau, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Toà án không công bố công khai chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự.
3. Người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải giữ bí mật theo quy định của pháp luật những chứng cứ thuộc trường hợp không công bố công khai quy định tại khoản 2 Điều này.
Điều 98. Bảo vệ chứng cứ
1. Trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau này khó có thể thu thập được thì đương sự có quyền làm đơn đề nghị Toà án quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ. Toà án có thể quyết định áp dụng một hoặc một số trong các biện pháp niêm phong, thu giữ, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phục chế, khám nghiệm, lập biên bản và các biện pháp khác.
2. Trong trường hợp người làm chứng bị đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc để không cung cấp chứng cứ hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật thì Toà án có quyền quyết định buộc người có hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc phải chấm dứt hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc người làm chứng. Trường hợp hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc có dấu hiệu tội phạm thì Toà án yêu cầu Viện kiểm sát xem xét về trách nhiệm hình sự.

Chương VIII
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời

Điều 99. Quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 162 của Bộ luật này có quyền yêu cầu Toà án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.
2. Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Toà án đó.
3. Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp quy định tại Điều 119 của Bộ luật này.
Điều 100. Thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi mở phiên toà do một Thẩm phán xem xét, quyết định.
2. Việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên toà do Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
Điều 101. Trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng
1. Người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trong trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.
2. Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì Toà án phải bồi thường nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Toà án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
b) Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu;
c) Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Điều 102. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.
3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.
4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
5. Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động.
6. Kê biên tài sản đang tranh chấp.
7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.
9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác.
10. Phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản ở nơi gửi giữ.
11. Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ.
12. Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định.
13. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.
Điều 103. Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến người chưa thành niên chưa có người giám hộ.
Điều 104. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng
Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu cấp dưỡng và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ và nếu không thực hiện trước ngay một phần nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ, đời sống của người được cấp dưỡng.
Điều 105. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm
Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ và cần thiết.
Điều 106. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động
Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu trả tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ và cần thiết.
Điều 107. Tạm đình chỉ thi hành quyết định sa thải người lao động
Tạm đình chỉ thi hành quyết định sa thải người lao động được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến sa thải người lao động và xét thấy quyết định sa thải người lao động là trái pháp luật hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người lao động.
Điều 108. Kê biên tài sản đang tranh chấp
1. Kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản.
2. Tài sản bị kê biên có thể được thu giữ, bảo quản tại cơ quan thi hành án hoặc lập biên bản giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định của Toà án.
Điều 109. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp
Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp cho người khác.
Điều 110. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp
Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó.
Điều 111. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác
Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có tài sản đang tranh chấp hoặc liên quan đến tranh chấp mà có hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác ở thời kỳ thu hoạch hoặc không thể bảo quản được lâu dài.
Điều 112. Phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước
Phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án.
Điều 113. Phong toả tài sản ở nơi gửi giữ
Phong toả tài sản ở nơi gửi giữ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản đang gửi giữ và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án.
Điều 114. Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ
Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án.
Điều 115. Cấm hoặc buộc thực hiện một số hành vi nhất định
Cấm hoặc buộc thực hiện một số hành vi nhất định được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác thực hiện hoặc không thực hiện một số hành vi nhất định làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có liên quan trong vụ án đang được Toà án giải quyết.
Điều 116. Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác
Trong trường hợp do pháp luật quy định, Toà án có trách nhiệm giải quyết yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời ngoài những trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 Điều 102 của Bộ luật này.
Điều 117. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải làm đơn gửi đến Toà án có thẩm quyền. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm viết đơn;
b) Tên, địa chỉ của người có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
c) Tên, địa chỉ của người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
d) Tóm tắt nội dung tranh chấp hoặc hành vi xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
đ) Lý do cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
e) Biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng và các yêu cầu cụ thể.
Tuỳ theo yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu phải cung cấp cho Toà án chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.
2. Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 1 Điều 99 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải xem xét, giải quyết. Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận đơn, nếu người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 120 của Bộ luật này thì Thẩm phán phải ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.
Trường hợp Hội đồng xét xử nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên toà thì Hội đồng xét xử xem xét ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay hoặc sau khi người yêu cầu đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 120 của Bộ luật này.
3. Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 99 của Bộ luật này thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án Toà án chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.
4. Trong trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 10, khoản 11 Điều 102 của Bộ luật này thì chỉ được phong toả tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện.
Điều 118. Kiến nghị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích của người khác
Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích của người khác quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 162 của Bộ luật này kiến nghị Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bằng văn bản trong đó phải nêu rõ lý do kiến nghị Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng; tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích hợp pháp cần được bảo vệ; tên, địa chỉ của người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; tóm tắt nội dung tranh chấp hoặc hành vi xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; chứng cứ để chứng minh cho việc kiến nghị của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Điều 119. Toà án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Toà án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 102 của Bộ luật này trong trường hợp đương sự không có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Điều 120. Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm
1. Người yêu cầu Toà án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 102 của Bộ luật này phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Toà án ấn định nhưng phải tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu.
Đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 99 của Bộ luật này thì thời hạn thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại Điều này không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm nộp đơn yêu cầu.
2. Khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá phải được gửi vào tài khoản phong toả tại ngân hàng nơi có trụ sở của Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thời hạn do Toà án ấn định.
Trong trường hợp thực hiện biện pháp bảo đảm vào ngày lễ hoặc ngày nghỉ thì khoản tiền bảo đảm được gửi giữ tại Toà án. Toà án phải làm thủ tục giao nhận và gửi ngay khoản tiền đó vào ngân hàng vào ngày làm việc tiếp theo.
Điều 121. Thay đổi, áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời
Khi xét thấy biện pháp khẩn cấp tạm thời đang được áp dụng không còn phù hợp mà cần thiết phải thay đổi hoặc áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời khác thì thủ tục thay đổi, áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời khác được thực hiện theo quy định tại Điều 117 của Bộ luật này.
Điều 122. Huỷ bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Toà án ra ngay quyết định huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng khi có một trong các trường hợp sau đây:
a) Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đề nghị huỷ bỏ;
b) Người phải thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nộp tài sản hoặc có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu;
c) Nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Trong trường hợp huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, Toà án phải xem xét, quyết định để người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhận lại khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá bảo đảm quy định tại Điều 120 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 101 của Bộ luật này.
Điều 123. Hiệu lực của quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay.
2. Toà án phải cấp hoặc gửi quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay sau khi ra quyết định cho người có yêu cầu, người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền và Viện kiểm sát cùng cấp.
Điều 124. Khiếu nại, kiến nghị về quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án về quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc việc Thẩm phán không ra quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Thời hạn khiếu nại, kiến nghị là ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc trả lời của Thẩm phán về việc không ra quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Điều 125. Giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Chánh án Toà án phải xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị quy định tại Điều 124 của Bộ luật này trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị.
2. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án là quyết định cuối cùng và phải được cấp hoặc gửi ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 123 của Bộ luật này.
3. Tại phiên toà, việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Hội đồng xét xử là quyết định cuối cùng.
Điều 126. Thi hành quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
2. Trong trường hợp quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì đương sự có nghĩa vụ nộp bản sao quyết định cho cơ quan quản lý đăng ký quyền sở hữu.

Chương IX
Án phí, lệ phí và các chi phí tố tụng khác

Mục 1
Án phí, lệ phí

Điều 127. Tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí
1. Tiền tạm ứng án phí bao gồm tiền tạm ứng án phí sơ thẩm và tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.
2. Án phí bao gồm án phí sơ thẩm và án phí phúc thẩm.
3. Lệ phí bao gồm lệ phí cấp bản sao bản án, quyết định và các giấy tờ khác của Toà án, lệ phí nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự, lệ phí giải quyết việc dân sự và các khoản lệ phí khác mà pháp luật có quy định.
Điều 128. Xử lý tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí thu được
1. Toàn bộ án phí, lệ phí thu được phải nộp đầy đủ, kịp thời vào ngân sách nhà nước tại kho bạc nhà nước.
2. Tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí được nộp cho cơ quan thi hành án có thẩm quyền để gửi vào tài khoản tạm giữ mở tại kho bạc nhà nước và được rút ra để thi hành án theo quyết định của Toà án.
3. Người đã nộp tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí phải chịu án phí, lệ phí thì ngay sau khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực thi hành, số tiền tạm ứng đã thu được phải được nộp vào ngân sách nhà nước.
Trong trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí được hoàn trả một phần hoặc toàn bộ số tiền đã nộp theo bản án, quyết định của Toà án thì cơ quan thi hành án đã thu tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí phải làm thủ tục trả lại tiền cho họ.
4. Trong trường hợp việc giải quyết vụ việc dân sự bị tạm đình chỉ thì tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí đã nộp được xử lý khi vụ việc được tiếp tục giải quyết.
Điều 129. Chế độ thu, chi trả tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí
Việc thu tiền tạm ứng án phí và án phí, tiền tạm ứng lệ phí và lệ phí; việc chi trả tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí phải được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Điều 130. Nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí
1. Nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trong vụ án dân sự phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí.
2. Người nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự phải nộp tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự đó, trừ trường hợp không phải nộp tiền tạm ứng lệ phí.
Điều 131. Nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm
1. Đương sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Toà án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn nộp án phí sơ thẩm hoặc không phải nộp án phí sơ thẩm.
2. Trong trường hợp các bên đương sự không tự xác định được phần tài sản của mình trong khối tài sản chung và có yêu cầu Toà án giải quyết chia tài sản chung đó thì mỗi bên đương sự phải nộp án phí sơ thẩm tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được hưởng.
3. Trước khi mở phiên toà, Toà án tiến hành hoà giải nếu các bên đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
4. Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải nộp án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Toà án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trong trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí sơ thẩm.
5. Trong vụ án có đương sự được miễn nộp án phí sơ thẩm thì đương sự khác vẫn phải nộp án phí sơ thẩm mà mình phải chịu theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này.
6. Trong trường hợp vụ án bị tạm đình chỉ giải quyết thì nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm được quyết định khi vụ án được tiếp tục giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này.
Điều 132. Nghĩa vụ nộp án phí phúc thẩm
1. Đương sự kháng cáo phải nộp án phí phúc thẩm, nếu Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp án phí phúc thẩm.
2. Trong trường hợp Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo thì đương sự kháng cáo không phải nộp án phí phúc thẩm; Toà án cấp phúc thẩm phải xác định lại nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật này.
3. Trong trường hợp Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo để xét xử sơ thẩm lại thì đương sự kháng cáo không phải nộp án phí phúc thẩm; nghĩa vụ nộp án phí được xác định lại khi giải quyết sơ thẩm lại vụ án.
Điều 133. Nghĩa vụ nộp lệ phí
Nghĩa vụ nộp lệ phí được xác định tuỳ theo từng loại việc dân sự cụ thể và do pháp luật quy định.
Điều 134. Quy định cụ thể về án phí, lệ phí
án phí, mức án phí đối với mỗi loại vụ án cụ thể, các loại lệ phí, mức lệ phí cụ thể, các trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí, các trường hợp được miễn hoặc không phải nộp án phí, lệ phí và các vấn đề cụ thể khác liên quan đến án phí, lệ phí chưa được quy định trong Bộ luật này do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.

Mục 2
Các chi phí tố tụng khác

Điều 135. Tiền tạm ứng chi phí giám định, chi phí giám định
1. Tiền tạm ứng chi phí giám định là số tiền tổ chức, cá nhân được Toà án trưng cầu giám định tạm tính để tiến hành việc giám định theo quyết định của Toà án.
2. Chi phí giám định là số tiền cần thiết và hợp lý phải chi trả cho công việc giám định và do tổ chức, cá nhân thực hiện việc giám định tính căn cứ vào quy định của pháp luật.
Điều 136. Nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng chi phí giám định
1. Người yêu cầu trưng cầu giám định phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám định, trừ trường hợp các bên đương sự có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
2. Trong trường hợp các bên đương sự thoả thuận lựa chọn tổ chức giám định hoặc cùng yêu cầu về cùng một đối tượng trưng cầu giám định thì mỗi bên đương sự phải nộp một nửa số tiền tạm ứng chi phí giám định, trừ trường hợp các bên đương sự có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Điều 137. Xử lý tiền tạm ứng chi phí giám định đã nộp
1. Trong trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định không phải nộp chi phí giám định thì người phải nộp chi phí giám định theo quyết định của Toà án phải hoàn trả cho người đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định.
2. Trong trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định phải nộp chi phí giám định, nếu số tiền tạm ứng đã nộp chưa đủ cho chi phí giám định thực tế thì họ phải nộp thêm phần tiền còn thiếu đó; nếu số tiền tạm ứng đã nộp cao hơn chi phí giám định thực tế thì họ được trả lại phần tiền còn thừa đó.
Điều 138. Nghĩa vụ nộp tiền chi phí giám định
Trong trường hợp các bên đương sự không có thoả thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác thì nghĩa vụ nộp tiền chi phí giám định được xác định như sau:
1. Người yêu cầu trưng cầu giám định phải nộp tiền chi phí giám định, nếu kết quả giám định chứng minh yêu cầu của người đó là không có căn cứ;
2. Người không chấp nhận yêu cầu trưng cầu giám định phải nộp tiền chi phí giám định, nếu kết quả giám định chứng minh yêu cầu của người yêu cầu trưng cầu giám định là có căn cứ.
Điều 139. Tiền tạm ứng chi phí định giá, chi phí định giá
1. Tiền tạm ứng chi phí định giá là số tiền mà Hội đồng định giá tạm tính để tiến hành việc định giá theo quyết định của Toà án.
2. Chi phí định giá là số tiền cần thiết và hợp lý phải chi trả cho công việc định giá và do Hội đồng định giá tính căn cứ vào quy định của pháp luật.
Điều 140. Nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng chi phí định giá
1. Người yêu cầu định giá phải nộp tiền tạm ứng chi phí định giá, trừ trường hợp các bên đương sự có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
2. Trong trường hợp các bên đương sự không thống nhất được về giá mà yêu cầu Toà án định giá hoặc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 92 của Bộ luật này thì mỗi bên đương sự phải nộp một nửa số tiền tạm ứng chi phí định giá.
Điều 141. Xử lý tiền tạm ứng chi phí định giá đã nộp
1. Trong trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng chi phí định giá không phải nộp chi phí định giá thì người phải nộp chi phí định giá theo quyết định của Toà án phải hoàn trả cho người đã nộp tiền tạm ứng chi phí định giá.
2. Trong trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng chi phí định giá phải nộp chi phí định giá, nếu số tiền tạm ứng đã nộp chưa đủ cho chi phí định giá thực tế thì họ phải nộp thêm phần tiền còn thiếu đó; nếu số tiền tạm ứng đã nộp cao hơn chi phí định giá thực tế thì họ được trả lại phần tiền còn thừa đó.
Điều 142. Nghĩa vụ nộp tiền chi phí định giá
Trong trường hợp các bên đương sự không có thoả thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác thì nghĩa vụ nộp tiền chi phí định giá được xác định như sau:
1. Người yêu cầu định giá phải nộp tiền chi phí định giá, nếu kết quả định giá chứng minh yêu cầu của người đó là không có căn cứ;
2. Người không chấp nhận yêu cầu định giá phải nộp chi phí định giá nếu kết quả định giá chứng minh yêu cầu của người yêu cầu định giá là có căn cứ;
3. Trong trường hợp các bên không thống nhất được về giá mà yêu cầu Toà án định giá thì mỗi bên đương sự phải nộp một nửa số tiền chi phí định giá;
4. Trong trường hợp Toà án ra quyết định định giá quy định tại điểm b khoản 1 Điều 92 của Bộ luật này thì:
a) Mỗi bên đương sự phải nộp một nửa số tiền chi phí định giá nếu kết quả định giá chứng minh quyết định định giá của Toà án là có căn cứ;
b) Toà án trả chi phí định giá nếu kết quả định giá chứng minh quyết định định giá của Toà án là không có căn cứ;
5. Trong trường hợp định giá để chia tài sản chung thì mỗi người được chia tài sản phải chịu phần chi phí định giá theo tỷ lệ giá trị phần tài sản mà họ được chia.
Điều 143. Chi phí cho người làm chứng
1. Chi phí hợp lý và thực tế cho người làm chứng do đương sự chịu.
2. Người đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng phải chịu tiền chi phí cho người làm chứng nếu lời làm chứng phù hợp sự thật nhưng không đúng với yêu cầu của người đề nghị. Trong trường hợp lời làm chứng phù hợp với sự thật và đúng với yêu cầu của người đề nghị triệu tập người làm chứng thì chi phí này do đương sự có yêu cầu độc lập với yêu cầu của người đề nghị chịu.
Điều 144. Chi phí cho người phiên dịch, luật sư
1. Chi phí cho người phiên dịch là khoản tiền phải trả cho người phiên dịch trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo thoả thuận của đương sự với người phiên dịch hoặc theo quy định của pháp luật.
2. Chi phí cho luật sư là khoản tiền phải trả cho luật sư theo thoả thuận của đương sự với luật sư trong phạm vi quy định của Văn phòng luật sư và theo quy định của pháp luật.
3. Chi phí cho người phiên dịch, cho luật sư do người có yêu cầu chịu, trừ trường hợp các bên đương sự có thoả thuận khác.
4. Trong trường hợp Toà án yêu cầu người phiên dịch thì chi phí cho người phiên dịch do Toà án trả.
Điều 145. Quy định cụ thể về các chi phí tố tụng khác
Chi phí cụ thể về giám định, định giá và chi phí cụ thể cho người làm chứng, người phiên dịch, luật sư do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.

Chương X
Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

Điều 146. Nghĩa vụ cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng
Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án có nghĩa vụ cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng cho đương sự, những người tham gia tố tụng khác và cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của Bộ luật này.
Điều 147. Các văn bản tố tụng phải được cấp, tống đạt hoặc thông báo
1. Bản án, quyết định của Toà án.
2. Đơn khởi kiện, đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị.
3. Giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời trong tố tụng dân sự.
4. Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí và các chi phí khác.
5. Các văn bản tố tụng khác mà pháp luật có quy định.
Điều 148. Người thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng
1. Việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng do những người sau đây thực hiện:
a) Người tiến hành tố tụng, người của cơ quan ban hành văn bản tố tụng được giao nhiệm vụ thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng;
b) Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người tham gia tố tụng dân sự cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người tham gia tố tụng dân sự làm việc khi Toà án có yêu cầu;
c) Đương sự, người đại diện của đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong những trường hợp do Bộ luật này quy định;
d) Nhân viên bưu điện;
đ) Những người khác mà pháp luật có quy định.
2. Người có nghĩa vụ thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo mà không làm đúng trách nhiệm của mình thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Điều 149. Các phương thức cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng
Việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng được thực hiện bằng các phương thức sau đây:
1. Cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp, qua bưu điện hoặc người thứ ba được uỷ quyền;
2. Niêm yết công khai;
3. Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Điều 150. Tính hợp lệ của việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng
1. Việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng được thực hiện theo quy định của Bộ luật này thì được coi là hợp lệ.
2. Người có nghĩa vụ thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng phải thực hiện theo quy định của Bộ luật này.
Người có nghĩa vụ thi hành các văn bản tố tụng đã được cấp, tống đạt hoặc thông báo hợp lệ phải nghiêm chỉnh thi hành; trường hợp không thi hành hoặc thi hành không đúng thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Điều 151. Thủ tục cấp, tống đạt hoặc thông báo trực tiếp
Người thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng phải trực tiếp chuyển giao cho người được cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng có liên quan. Người được cấp, tống đạt hoặc thông báo phải ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản tố tụng. Thời điểm để tính thời hạn tố tụng là ngày họ được cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng.
Điều 152. Thủ tục cấp, tống đạt hoặc thông báo trực tiếp cho cá nhân
1. Người được cấp, tống đạt hoặc thông báo là cá nhân thì văn bản tố tụng phải được giao trực tiếp cho họ.
2. Trong trường hợp người được cấp, tống đạt hoặc thông báo vắng mặt thì văn bản tố tụng có thể được giao cho người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú với họ ký nhận và yêu cầu người này cam kết giao lại tận tay ngay cho người được cấp, tống đạt hoặc thông báo. Ngày ký nhận của người thân thích cùng cư trú được coi là ngày được cấp, tống đạt hoặc thông báo.
Trong trường hợp người được cấp, tống đạt hoặc thông báo không có người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú hoặc có nhưng họ không chịu nhận hộ văn bản tố tụng thì có thể chuyển giao văn bản đó cho tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, khóm, buôn, phum, sóc (sau đây gọi chung là tổ trưởng tổ dân phố), Uỷ ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn nơi người được cấp, tống đạt hoặc thông báo cư trú và yêu cầu những người này cam kết giao lại tận tay ngay cho người được cấp, tống đạt hoặc thông báo.
3. Trong trường hợp việc cấp, tống đạt hoặc thông báo qua người khác thì người thực hiện phải lập biên bản ghi rõ việc người được cấp, tống đạt hoặc thông báo vắng mặt, văn bản tố tụng đã được giao cho ai; lý do; ngày, giờ giao; quan hệ giữa họ với nhau; cam kết giao lại tận tay ngay văn bản tố tụng cho người được cấp, tống đạt hoặc thông báo. Biên bản có chữ ký của người nhận chuyển văn bản tố tụng và người thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo, người chứng kiến.
4. Trong trường hợp người được cấp, tống đạt hoặc thông báo đã chuyển đến địa chỉ mới thì phải cấp, tống đạt hoặc thông báo theo địa chỉ mới của họ.
5. Trong trường hợp người được cấp, tống đạt hoặc thông báo vắng mặt mà không rõ thời điểm trở về hoặc không rõ địa chỉ thì người thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo phải lập biên bản về việc không thực hiện được việc cấp, tống đạt hoặc thông báo có chữ ký của người cung cấp thông tin.
6. Trong trường hợp người được cấp, tống đạt hoặc thông báo từ chối nhận văn bản tố tụng thì người thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo phải lập biên bản trong đó nêu rõ lý do của việc từ chối, có xác nhận của tổ trưởng tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn về việc người đó từ chối nhận văn bản tố tụng.
Điều 153. Thủ tục cấp, tống đạt hoặc thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức
Trường hợp người được cấp, tống đạt hoặc thông báo là cơ quan, tổ chức thì văn bản tố tụng phải được giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật hoặc người chịu trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải được những người này ký nhận. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức được cấp, tống đạt hoặc thông báo có người đại diện tham gia tố tụng hoặc cử người đại diện nhận văn bản tố tụng thì những người này ký nhận văn bản tố tụng đó. Ngày ký nhận là ngày được cấp, tống đạt hoặc thông báo.
Điều 154. Thủ tục niêm yết công khai
1. Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng chỉ được thực hiện khi không rõ tung tích của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo hoặc không thể thực hiện được việc cấp, tống đạt hoặc thông báo trực tiếp.
2. Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng do Toà án trực tiếp hoặc uỷ quyền cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo được thực hiện theo thủ tục sau đây:
a) Niêm yết bản chính tại trụ sở Toà án, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo;
b) Niêm yết bản sao tại nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo;
c) Lập biên bản về việc thực hiện thủ tục niêm yết công khai, trong đó ghi rõ ngày, tháng, năm niêm yết.
3. Thời gian niêm yết công khai văn bản tố tụng là mười lăm ngày, kể từ ngày niêm yết.
Điều 155. Thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng
1. Việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng chỉ được thực hiện khi pháp luật có quy định hoặc có căn cứ xác định là việc niêm yết công khai không bảo đảm cho người được cấp, tống đạt hoặc thông báo nhận được thông tin về văn bản cần được cấp, tống đạt hoặc thông báo.
Việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng có thể được thực hiện nếu có yêu cầu của các đương sự khác. Lệ phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng do đương sự có yêu cầu thông báo phải chịu.
2. Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng phải được đăng trên báo hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp và phát sóng trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong ba ngày liên tiếp.
Điều 156. Thông báo kết quả việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng
Trong trường hợp người thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng không phải là Toà án hoặc cơ quan ban hành văn bản tố tụng hoặc cán bộ của các cơ quan đó thì người thực hiện phải thông báo ngay kết quả việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng cho Toà án hoặc cơ quan ban hành văn bản tố tụng đó.

Chương XI
Thời hạn tố tụng

Điều 157. Thời hạn tố tụng
1. Thời hạn tố tụng là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện hành vi tố tụng do Bộ luật này quy định.
2. Thời hạn tố tụng có thể được xác định bằng giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể xảy ra.
Điều 158. Áp dụng quy định của Bộ luật dân sự về thời hạn
Cách tính thời hạn tố tụng, quy định về thời hạn tố tụng, thời điểm bắt đầu, kết thúc thời hạn tố tụng trong Bộ luật này được áp dụng theo các quy định tương ứng của Bộ luật dân sự.
Điều 159. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu
1. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Thời hiệu yêu cầu là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được quy định như sau:
a) Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm;
b) Thời hiệu yêu cầu để Toà án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu.
Điều 160. Áp dụng quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu
Các quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu được áp dụng trong tố tụng dân sự.

Phần thứ hai
Thủ tục Giải quyết vụ án tại toà án cấp sơ thẩm

Chương XII
Khởi kiện và thụ lý vụ án

Điều 161. Quyền khởi kiện vụ án
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Điều 162. Quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước
1. Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật hôn nhân và gia đình quy định.
2. Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định.
3. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
Điều 163. Phạm vi khởi kiện
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.
2. Nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể cùng khởi kiện một cá nhân, một cơ quan, một tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền do Bộ luật này quy định có thể khởi kiện đối với một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.
Điều 164. Hình thức, nội dung đơn khởi kiện
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện phải làm đơn khởi kiện.
2. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
b) Tên Toà án nhận đơn khởi kiện;
c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện;
d) Tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích được bảo vệ, nếu có;
đ) Tên, địa chỉ của người bị kiện;
e) Tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu có;
g) Những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
h) Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có;
i) Tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp;
k) Các thông tin khác mà người khởi kiện xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án;
l) Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn.
Điều 165. Tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện
Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Điều 166. Gửi đơn khởi kiện đến Toà án
1. Người khởi kiện vụ án gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức sau đây:
a) Nộp trực tiếp tại Toà án;
b) Gửi đến Toà án qua bưu điện.
2. Ngày khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Toà án hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi.
Điều 167. Thủ tục nhận đơn khởi kiện
Toà án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Toà án hoặc gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Toà án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây:
1. Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình;
2. Chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác;
3. Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Điều 168. Trả lại đơn khởi kiện
1. Toà án trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:
a) Thời hiệu khởi kiện đã hết;
b) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
c) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Toà án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Toà án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện;
d) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 của Bộ luật này mà người khởi kiện không đến Toà án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng;
đ) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện;
e) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
2. Khi trả lại đơn khởi kiện, Toà án phải có văn bản kèm theo ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện.
Điều 169. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện
1. Trong trường hợp đơn khởi kiện không có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 164 của Bộ luật này thì Toà án thông báo cho người khởi kiện biết để họ sửa đổi, bổ sung trong một thời hạn do Toà án ấn định, nhưng không quá ba mươi ngày; trong trường hợp đặc biệt, Toà án có thể gia hạn, nhưng không quá mười lăm ngày.
2. Trong trường hợp người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 164 của Bộ luật này thì Toà án tiếp tục việc thụ lý vụ án; nếu họ không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Toà án thì Toà án trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện.
Điều 170. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo do Toà án trả lại, người khởi kiện có quyền khiếu nại với Chánh án Toà án đã trả lại đơn khởi kiện.
2. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Toà án phải ra một trong các quyết định sau đây:
a) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện;
b) Nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
Điều 171. Thụ lý vụ án
1. Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án thì Toà án phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Toà án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.
2. Toà án dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào phiếu báo và giao cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí.
3. Toà án thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.
4. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí thì Toà án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo.
Điều 172. Phân công Thẩm phán giải quyết vụ án
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Toà án phân công một Thẩm phán giải quyết vụ án.
2. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Thẩm phán được phân công không thể tiếp tục tiến hành được nhiệm vụ thì Chánh án Toà án phân công Thẩm phán khác tiếp tục nhiệm vụ; trường hợp đang xét xử mà không có Thẩm phán dự khuyết thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu.
Điều 173. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán khi lập hồ sơ vụ án
1. Thông báo về việc thụ lý vụ án.
2. Yêu cầu đương sự nộp tài liệu, chứng cứ cho Toà án.
3. Thực hiện một hoặc một số biện pháp để thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 85 của Bộ luật này.
Điều 174. Thông báo về việc thụ lý vụ án
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án.
2. Văn bản thông báo phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo;
b) Tên, địa chỉ Toà án đã thụ lý vụ án;
c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện;
d) Những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết;
đ) Danh sách tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện;
e) Thời hạn người được thông báo phải có ý kiến bằng văn bản nộp cho Toà án đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có;
g) Hậu quả pháp lý của việc người được thông báo không nộp cho Toà án văn bản về ý kiến của mình đối với yêu cầu.
Điều 175. Quyền, nghĩa vụ của người được thông báo
1. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có.
Trong trường hợp cần gia hạn thì người được thông báo phải có đơn xin gia hạn gửi cho Toà án nêu rõ lý do; nếu việc xin gia hạn là có căn cứ thì Toà án phải gia hạn, nhưng không quá mười lăm ngày.
2. Người được thông báo có quyền yêu cầu Toà án cho xem, ghi chép, sao chụp đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện.
Điều 176. Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn
1. Cùng với việc phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện thì bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn.
2. Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn được chấp nhận khi có một trong các trường hợp sau đây:
a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn;
b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn;
c) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
Điều 177. Quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây:
1. Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
2. Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;
3. Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
Điều 178. Thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập
Thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập được thực hiện theo quy định của Bộ luật này về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn.

Chương XIII
Hoà giải và Chuẩn bị xét xử

Điều 179. Thời hạn chuẩn bị xét xử
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án được quy định như sau:
a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này, thời hạn là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của Bộ luật này, thời hạn là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a và một tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
2. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này, tuỳ từng trường hợp, Toà án ra một trong các quyết định sau đây:
a) Công nhận sự thoả thuận của các đương sự;
b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án;
c) Đình chỉ giải quyết vụ án;
d) Đưa vụ án ra xét xử.
3. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng.
Điều 180. Nguyên tắc tiến hành hoà giải
1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Toà án tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hoà giải hoặc không tiến hành hoà giải được quy định tại Điều 181 và Điều 182 của Bộ luật này.
2. Việc hoà giải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tôn trọng sự tự nguyện thoả thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thoả thuận không phù hợp với ý chí của mình;
b) Nội dung thoả thuận giữa các đương sự không được trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Điều 181. Những vụ án dân sự không được hoà giải
1. Yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
2. Những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Điều 182. Những vụ án dân sự không tiến hành hoà giải được
1. Bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.
2. Đương sự không thể tham gia hoà giải được vì có lý do chính đáng.
3. Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.
Điều 183. Thông báo về phiên hoà giải
Trước khi tiến hành phiên hoà giải, Toà án phải thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự biết về thời gian, địa điểm tiến hành phiên hoà giải, nội dung các vấn đề cần hoà giải.
Điều 184. Thành phần phiên hoà giải
1. Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải.
2. Thư ký Toà án ghi biên bản hoà giải.
3. Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự.
Trong một vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt trong phiên hoà giải, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hoà giải và việc hoà giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hoà giải giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hoà giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hoà giải.
4. Người phiên dịch, nếu đương sự không biết tiếng Việt.
Điều 185. Nội dung hoà giải
Khi tiến hành hoà giải, Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành để họ tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
Điều 186. Biên bản hoà giải
1. Việc hoà giải được Thư ký Toà án ghi vào biên bản. Biên bản hoà giải phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm tiến hành phiên hoà giải;
b) Địa điểm tiến hành phiên hoà giải;
c) Thành phần tham gia phiên hoà giải;
d) ý kiến của các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự;
đ) Những nội dung đã được các đương sự thoả thuận, không thoả thuận.
2. Biên bản hoà giải phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của các đương sự có mặt trong phiên hoà giải, chữ ký của Thư ký Toà án ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải.
Khi các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì Toà án lập biên bản hoà giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia hoà giải.
Điều 187. Ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự
1. Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Toà án phân công ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, Toà án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
2. Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
3. Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 184 của Bộ luật này mà các đương sự có mặt thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thoả thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trong trường hợp thoả thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thoả thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hoà giải đồng ý bằng văn bản.
Điều 188. Hiệu lực của quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự
1. Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
2. Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thoả thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe doạ hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Điều 189. Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
1. Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó.
2. Một bên đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật.
3. Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế.
4. Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án.
5. Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
Điều 190. Hậu quả của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
1. Toà án không xoá tên vụ án dân sự bị tạm đình chỉ giải quyết trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý số và ngày, tháng, năm của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đó.
2. Tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được gửi tại kho bạc nhà nước và được xử lý khi Toà án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự.
3. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Điều 191. Tiếp tục giải quyết vụ án dân sự bị tạm đình chỉ
Toà án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự bị tạm đình chỉ khi lý do tạm đình chỉ không còn.
Điều 192. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây:
a) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế;
b) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó;
c) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện;
d) Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án;
đ) Các đương sự đã tự thoả thuận và không yêu cầu Toà án tiếp tục giải quyết vụ án;
e) Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt;
g) Đã có quyết định của Toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó;
h) Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
2. Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, xoá tên vụ án đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự nếu vụ án thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện quy định tại Điều 168 của Bộ luật này.
Điều 193. Hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
1. Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp quy định tại các điểm c, e và g khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này và các trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Trong trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được sung vào công quỹ nhà nước.
3. Trong trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định tại khoản 2 Điều 192 của Bộ luật này thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được trả lại cho người đã nộp tiền tạm ứng án phí.
4. Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Điều 194. Thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
1. Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đó.
2. Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Toà án phải gửi quyết định đó cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
Điều 195. Quyết định đưa vụ án ra xét xử
1. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết định;
b) Tên Toà án ra quyết định;
c) Vụ án được đưa ra xét xử;
d) Tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn hoặc người khác khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
đ) Họ, tên Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án và họ, tên Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dự khuyết, nếu có;
e) Họ, tên Kiểm sát viên tham gia phiên toà, nếu có;
g) Ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên toà;
h) Xét xử công khai hoặc xét xử kín;
i) Họ, tên những người được triệu tập tham gia phiên toà.
2. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được gửi cho các đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp ngay sau khi ra quyết định.
Trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật này thì Toà án phải gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp; trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Toà án.

Chương XIV
Phiên toà sơ thẩm

Mục 1
Quy định chung về phiên toà sơ thẩm

Điều 196. Yêu cầu chung đối với phiên toà sơ thẩm
Phiên toà sơ thẩm phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên toà trong trường hợp phải hoãn phiên toà.
Điều 197. Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục
1. Toà án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác; xem xét, kiểm tra tài liệu, chứng cứ đã thu thập được; nghe Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án, trong trường hợp có Kiểm sát viên tham gia phiên toà. Bản án chỉ được căn cứ vào kết quả tranh tụng, việc hỏi tại phiên toà và các chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà.
2. Việc xét xử bằng lời nói và phải được tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 198 của Bộ luật này.
Trong trường hợp đặc biệt do Bộ luật này quy định thì việc xét xử có thể tạm ngừng không quá năm ngày làm việc. Hết thời hạn tạm ngừng, việc xét xử vụ án được tiếp tục.
Điều 198. Thay thế thành viên Hội đồng xét xử trong trường hợp đặc biệt
1. Trong trường hợp có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không thể tiếp tục tham gia xét xử vụ án nhưng có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dự khuyết thì những người này được tham gia xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên toà từ đầu.
Trong trường hợp Hội đồng xét xử có hai Thẩm phán mà Thẩm phán chủ toạ phiên toà không tiếp tục tham gia xét xử được thì Thẩm phán là thành viên Hội đồng xét xử làm chủ toạ phiên toà và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên Hội đồng xét xử.
2. Trong trường hợp không có Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân dự khuyết để thay thế thành viên Hội đồng xét xử hoặc phải thay đổi chủ toạ phiên toà mà không có Thẩm phán để thay thế theo quy định tại khoản 1 Điều này thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu.
Điều 199. Sự có mặt của nguyên đơn tại phiên toà
1. Nguyên đơn phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà.
2. Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thì nguyên đơn có quyền khởi kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
Điều 200. Sự có mặt của bị đơn tại phiên toà
1. Bị đơn phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà.
2. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
Điều 201. Sự có mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà.
2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của mình và Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu nguyên đơn và bị đơn đều đồng ý. Trong trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
Điều 202. Xét xử trong trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên toà
Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án trong các trường hợp sau đây:
1. Nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt;
2. Nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có người đại diện hợp pháp tham gia phiên toà;
3. Các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 200 và khoản 2 Điều 201 của Bộ luật này.
Điều 203. Sự có mặt của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải tham gia phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án tiến hành xét xử vụ án; trong trường hợp này, đương sự tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Điều 204. Sự có mặt của người làm chứng
1. Người làm chứng có nghĩa vụ tham gia phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Trong trường hợp người làm chứng vắng mặt nhưng trước đó đã có lời khai trực tiếp với Toà án hoặc gửi lời khai cho Toà án thì chủ toạ phiên toà công bố lời khai đó.
2. Trường hợp người làm chứng vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử; trường hợp người làm chứng vắng mặt tại phiên toà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc xét xử thì có thể bị dẫn giải đến phiên toà theo quyết định của Hội đồng xét xử.
Điều 205. Sự có mặt của người giám định
1. Người giám định có nghĩa vụ tham gia phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án để làm rõ những vấn đề liên quan đến việc giám định và kết luận giám định.
2. Trường hợp người giám định vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử.
Điều 206. Sự có mặt của người phiên dịch
1. Người phiên dịch có nghĩa vụ tham gia phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án.
2. Trường hợp người phiên dịch vắng mặt mà không có người khác thay thế thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà, trừ trường hợp đương sự vẫn yêu cầu tiến hành xét xử.
Điều 207. Sự có mặt của Kiểm sát viên
1. Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên toà.
2. Trong trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên toà hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên toà xét xử, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết thì người này được tham gia phiên toà xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên toà từ đầu.
Trong trường hợp không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà và thông báo cho Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp.
Điều 208. Thời hạn hoãn phiên toà và quyết định hoãn phiên toà
1. Trong trường hợp Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà theo quy định tại khoản 2 Điều 51, khoản 2 Điều 72 và các điều 199, 200, 201, 203, 204, 205, 206, 207, 215 và khoản 4 Điều 230 của Bộ luật này thì thời hạn hoãn phiên toà sơ thẩm không quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên toà.
2. Quyết định hoãn phiên toà phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết định;
b) Tên Toà án và họ, tên những người tiến hành tố tụng;
c) Vụ án được đưa ra xét xử;
d) Lý do của việc hoãn phiên toà;
đ) Thời gian, địa điểm mở lại phiên toà.
3. Quyết định hoãn phiên toà phải được chủ toạ phiên toà thay mặt Hội đồng xét xử ký tên và thông báo công khai cho những người tham gia tố tụng biết; đối với người vắng mặt thì Toà án gửi ngay cho họ quyết định đó, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
4. Trong trường hợp sau khi hoãn phiên toà mà Toà án không thể mở lại phiên toà đúng thời gian, địa điểm mở lại phiên toà ghi trong quyết định hoãn phiên toà thì Toà án phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng biết về thời gian, địa điểm mở lại phiên toà.
Điều 209. Nội quy phiên toà
1. Những người dưới mười sáu tuổi không được vào phòng xử án, trừ trường hợp được Toà án triệu tập tham gia phiên toà.
Mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án, phải tôn trọng Hội đồng xét xử, giữ gìn trật tự và tuân theo sự điều khiển của chủ toạ phiên toà.
Chỉ những người được Hội đồng xét xử cho phép mới được hỏi, trả lời hoặc phát biểu. Người hỏi, trả lời hoặc phát biểu phải đứng dậy, trừ trường hợp vì lý do sức khoẻ được chủ toạ phiên toà cho phép ngồi để hỏi, trả lời hoặc phát biểu.
2. Chánh án Toà án nhân dân tối cao căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều này và các quy định khác của pháp luật ban hành nội quy phiên toà.
Điều 210. Thủ tục ra bản án và quyết định của Toà án tại phiên toà
1. Bản án phải được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng nghị án.
2. Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án, hoãn phiên toà phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản.
3. Quyết định về các vấn đề khác được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án, không phải viết thành văn bản, nhưng phải được ghi vào biên bản phiên toà.
Điều 211. Biên bản phiên toà
1. Biên bản phiên toà phải ghi đầy đủ các nội dung sau đây:
a) Các nội dung chính trong quyết định đưa vụ án ra xét xử quy định tại khoản 1 Điều 195 của Bộ luật này;
b) Mọi diễn biến tại phiên toà từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên toà;
c) Các câu hỏi, câu trả lời và phát biểu tại phiên toà.
2. Ngoài việc ghi biên bản phiên toà, việc ghi âm, ghi hình về diễn biến phiên toà chỉ có thể được tiến hành khi được sự đồng ý của Hội đồng xét xử.
3. Sau khi kết thúc phiên toà, chủ toạ phiên toà phải kiểm tra biên bản và cùng với Thư ký Toà án ký vào biên bản đó.
4. Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có quyền được xem biên bản phiên toà ngay sau khi kết thúc phiên toà, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên toà và ký xác nhận.
Điều 212. Chuẩn bị khai mạc phiên toà
Trước khi khai mạc phiên toà, Thư ký Toà án phải tiến hành các công việc sau đây:
1. Phổ biến nội quy phiên toà;
2. Kiểm tra, xác định sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên toà theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án; nếu có người vắng mặt thì cần phải làm rõ lý do;
3. Ổn định trật tự trong phòng xử án;
4. Yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án.

Mục 2
Thủ tục bắt đầu phiên toà

Điều 213. Khai mạc phiên toà
1. Chủ toạ phiên toà khai mạc phiên toà và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.
2. Thư ký Toà án báo cáo với Hội đồng xét xử về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên toà theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án và lý do vắng mặt.
3. Chủ toạ phiên toà kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên toà theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án và kiểm tra căn cước của đương sự.
4. Chủ toạ phiên toà phổ biến quyền, nghĩa vụ của các đương sự và của những người tham gia tố tụng khác.
5. Chủ toạ phiên toà giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch.
6. Chủ toạ phiên toà hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch xem họ có yêu cầu thay đổi ai không.
Điều 214. Giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch
Trong trường hợp có người yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử phải xem xét, quyết định theo thủ tục do Bộ luật này quy định và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận; trường hợp không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do.
Điều 215. Xem xét, quyết định hoãn phiên toà khi có người vắng mặt
Khi có người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên toà mà không thuộc trường hợp Toà án phải hoãn phiên toà thì chủ toạ phiên toà phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên toà hay không; nếu có người đề nghị thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định theo thủ tục do Bộ luật này quy định và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận, trường hợp không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do.
Điều 216. Bảo đảm tính khách quan của người làm chứng
1. Trước khi người làm chứng được hỏi về những vấn đề mà họ biết được có liên quan đến việc giải quyết vụ án, chủ toạ phiên toà có thể quyết định những biện pháp cần thiết để những người làm chứng không nghe được lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những người có liên quan.
2. Trong trường hợp lời khai của đương sự và người làm chứng có ảnh hưởng lẫn nhau thì chủ toạ phiên toà có thể quyết định cách ly đương sự với người làm chứng trước khi hỏi người làm chứng.

Mục 3
Thủ tục hỏi tại phiên toà

Điều 217. Hỏi đương sự về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu
Thủ tục hỏi được bắt đầu bằng việc chủ toạ phiên toà hỏi đương sự về các vấn đề sau đây:
1. Hỏi nguyên đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện hay không;
2. Hỏi bị đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố hay không;
3. Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu độc lập hay không.
Điều 218. Xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu
1. Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự, nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.
2. Trong trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút.
Điều 219. Thay đổi địa vị tố tụng
1. Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn và nguyên đơn trở thành bị đơn.
2. Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn.
Điều 220. Công nhận sự thoả thuận của đương sự
1. Chủ toạ phiên toà hỏi các đương sự có thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Trong trường hợp các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thoả thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án.
2. Quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật.
Điều 221. Nghe lời trình bày của đương sự
1. Trong trường hợp có đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình và các đương sự không tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe lời trình bày của các đương sự theo trình tự sau đây:
a) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày yêu cầu của nguyên đơn và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến.
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày về yêu cầu khởi kiện và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp;
b) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn; yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến;
c) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu, đề nghị của nguyên đơn, bị đơn; yêu cầu độc lập, đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến.
2. Trong trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì họ tự trình bày về yêu cầu, đề nghị của mình và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp.
3. Tại phiên toà, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của mình.
Điều 222. Thứ tự hỏi tại phiên toà
Sau khi nghe xong lời trình bày của đương sự, việc hỏi từng người về từng vấn đề được thực hiện theo thứ tự chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến Hội thẩm nhân dân, sau đó đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự và những người tham gia tố tụng khác; trường hợp có Kiểm sát viên tham gia phiên toà thì Kiểm sát viên hỏi sau đương sự.
Điều 223. Hỏi nguyên đơn
1. Trong trường hợp có nhiều nguyên đơn thì phải hỏi riêng từng nguyên đơn.
2. Chỉ hỏi nguyên đơn về những vấn đề mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, nguyên đơn trình bày chưa rõ, có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với những lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với lời trình bày của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này.
3. Nguyên đơn có thể tự mình trả lời hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trả lời thay cho nguyên đơn và sau đó nguyên đơn trả lời bổ sung.
Điều 224. Hỏi bị đơn
1. Trong trường hợp có nhiều bị đơn thì phải hỏi riêng từng bị đơn.
2. Chỉ hỏi bị đơn về những vấn đề mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, bị đơn trình bày chưa rõ, có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với những lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này.
3. Bị đơn có thể tự mình trả lời hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trả lời thay cho bị đơn và sau đó bị đơn trả lời bổ sung.
Điều 225. Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
1. Trong trường hợp có nhiều người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì phải hỏi riêng từng người một.
2. Chỉ hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về những vấn đề mà họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày chưa rõ, có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với những lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị của bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể tự mình trả lời hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trả lời thay cho họ và sau đó họ trả lời bổ sung.
Điều 226. Hỏi người làm chứng
1. Trong trường hợp có nhiều người làm chứng thì phải hỏi riêng từng người một.
2. Trước khi hỏi người làm chứng, chủ toạ phiên toà phải hỏi rõ về quan hệ giữa họ với các đương sự trong vụ án; nếu người làm chứng là người chưa thành niên thì chủ toạ phiên toà có thể yêu cầu cha, mẹ, người giám hộ hoặc thầy giáo, cô giáo giúp đỡ để hỏi.
3. Chủ toạ phiên toà yêu cầu người làm chứng trình bày rõ những tình tiết của vụ án mà họ biết. Sau khi người làm chứng trình bày xong thì chỉ hỏi thêm người làm chứng về những điểm mà họ trình bày chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn với nhau, mâu thuẫn với những lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với lời trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
4. Sau khi đã trình bày xong, người làm chứng ở lại phòng xử án để có thể được hỏi thêm.
5. Trong trường hợp cần thiết phải bảo đảm an toàn cho người làm chứng và những người thân thích của họ, Hội đồng xét xử quyết định không tiết lộ những thông tin về nhân thân của người làm chứng và không để những người trong phiên toà nhìn thấy họ.
Điều 227. Công bố các tài liệu của vụ án
1. Hội đồng xét xử công bố các tài liệu của vụ án trong các trường hợp sau đây:
a) Người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên toà mà trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đã có lời khai;
b) Những lời khai của người tham gia tố tụng tại phiên toà mâu thuẫn với những lời khai trước đó;
c) Trong các trường hợp khác mà Hội đồng xét xử thấy cần thiết hoặc có yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng.
2. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu của đương sự thì Hội đồng xét xử không công bố các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Điều 228. Nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình
Theo yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng hoặc khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình tại phiên toà, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật này.
Điều 229. Xem xét vật chứng
Vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra để xem xét tại phiên toà.
Khi cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với các đương sự đến xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên toà được.
Điều 230. Hỏi người giám định
1. Chủ toạ phiên toà yêu cầu người giám định trình bày kết luận của mình về vấn đề được giao giám định. Khi trình bày, người giám định có quyền giải thích bổ sung về kết luận giám định, các căn cứ để đưa ra kết luận giám định.
2. Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên toà có quyền nhận xét về kết luận giám định, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ, hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án.
3. Trong trường hợp người giám định không có mặt tại phiên toà thì chủ toạ phiên toà công bố kết luận giám định.
4. Khi có người tham gia tố tụng không đồng ý với kết luận giám định được công bố tại phiên toà và có yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại, nếu xét thấy việc giám định bổ sung, giám định lại là cần thiết cho việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung, giám định lại; trong trường hợp này thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà.
Điều 231. Kết thúc việc hỏi tại phiên toà
Khi nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ toạ phiên toà hỏi Kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác xem họ có yêu cầu hỏi vấn đề gì nữa không; trường hợp có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì chủ toạ phiên toà quyết định tiếp tục việc hỏi.

Mục 4
Tranh luận tại phiên toà

Điều 232. Trình tự phát biểu khi tranh luận
1. Sau khi kết thúc việc hỏi, Hội đồng xét xử chuyển sang phần tranh luận tại phiên toà. Trình tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện như sau:
a) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát biểu. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày ý kiến. Người có quyền và lợi ích được bảo vệ có quyền bổ sung ý kiến;
b) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn phát biểu. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến;
c) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phát biểu. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến.
2. Trong trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì họ tự mình phát biểu khi tranh luận.
Điều 233. Phát biểu khi tranh luận và đối đáp
Khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án, người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà cũng như kết quả việc hỏi tại phiên toà. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án.
Điều 234. Phát biểu của Kiểm sát viên
Trong trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên toà thì sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, chủ toạ phiên toà đề nghị Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
Điều 235. Trở lại việc hỏi
Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi; sau khi hỏi xong phải tiếp tục tranh luận.

Mục 5
Nghị án và tuyên án

Điều 236. Nghị án
1. Sau khi kết thúc phần tranh luận, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để nghị án.
2. Chỉ có các thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Khi nghị án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.
3. Khi nghị án chỉ được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên toà, kết quả việc hỏi tại phiên toà và phải xem xét đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên.
4. Khi nghị án phải có biên bản ghi lại ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được các thành viên Hội đồng xét xử ký tên tại phòng nghị án trước khi tuyên án.
5. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian dài thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án, nhưng không quá năm ngày làm việc kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên toà.
Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên toà và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên toà biết giờ, ngày và địa điểm tuyên án; nếu Hội đồng xét xử đã thực hiện việc thông báo mà có người tham gia tố tụng vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc tuyên án theo quy định tại Điều 239 của Bộ luật này.
Điều 237. Trở lại việc hỏi và tranh luận
Qua nghị án, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận.
Điều 238. Bản án sơ thẩm
1. Toà án ra bản án nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Bản án gồm có phần mở đầu, phần nội dung vụ án và nhận định của Toà án, phần quyết định.
3. Trong phần mở đầu phải ghi rõ tên Toà án xét xử sơ thẩm; số và ngày thụ lý vụ án; số bản án và ngày tuyên án; họ, tên của các thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch; tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức khởi kiện; người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; đối tượng tranh chấp; số, ngày, tháng, năm của quyết định đưa vụ án ra xét xử; xét xử công khai hoặc xét xử kín; thời gian và địa điểm xét xử.
4. Trong phần nội dung vụ án và nhận định của Toà án phải ghi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, khởi kiện của cơ quan, tổ chức; đề nghị, yêu cầu phản tố của bị đơn; đề nghị, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nhận định của Toà án; điểm, khoản và điều luật của văn bản quy phạm pháp luật mà Toà án căn cứ để giải quyết vụ án.
Trong nhận định của Toà án phải phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
5. Trong phần quyết định phải ghi rõ các quyết định của Toà án về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án, về án phí và quyền kháng cáo đối với bản án; trường hợp có quyết định phải thi hành ngay thì phải ghi rõ quyết định đó.
Điều 239. Tuyên án
Khi tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy, trừ trường hợp đặc biệt được phép của chủ toạ phiên toà. Chủ toạ phiên toà hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo.
Trong trường hợp có đương sự không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ biết.
Điều 240. Sửa chữa, bổ sung bản án
1. Sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai. Việc sửa chữa, bổ sung phải được thông báo ngay cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc sửa chữa, bổ sung; đồng thời thông báo cho cơ quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp.
2. Việc sửa chữa, bổ sung bản án quy định tại khoản 1 Điều này phải do Thẩm phán phối hợp với các Hội thẩm nhân dân là thành viên Hội đồng xét xử vụ án đó thực hiện. Trong trường hợp Thẩm phán đó không còn đảm nhiệm chức vụ Thẩm phán thì Chánh án Toà án thực hiện việc sửa chữa, bổ sung đó.
Điều 241. Cấp trích lục bản án, bản án
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày kết thúc phiên toà, các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện được Toà án cấp trích lục bản án.
2. Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày tuyên án, Toà án phải giao hoặc gửi bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp.

Phần thứ ba
Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp phúc thẩm

Chương XV
Tính chất của xét xử phúc thẩm và kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định của toà án cấp sơ thẩm

Điều 242. Tính chất của xét xử phúc thẩm
Xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Điều 243. Người có quyền kháng cáo
Đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Điều 244. Đơn kháng cáo
1. Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo;
b) Tên, địa chỉ của người kháng cáo;
c) Kháng cáo phần nào của bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật;
d) Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo;
đ) Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo.
2. Đơn kháng cáo phải được gửi cho Toà án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo; trường hợp đơn kháng cáo gửi cho Toà án cấp phúc thẩm thì Toà án đó phải chuyển cho Toà án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ tục cần thiết và gửi kèm hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 255 của Bộ luật này.
3. Kèm theo đơn kháng cáo là tài liệu, chứng cứ bổ sung, nếu có để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Điều 245. Thời hạn kháng cáo
1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là bảy ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.
3. Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì.
Điều 246. Kiểm tra đơn kháng cáo
1. Sau khi nhận được đơn kháng cáo, Toà án cấp sơ thẩm phải kiểm tra tính hợp lệ của đơn kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp đơn kháng cáo quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trình bày rõ lý do và xuất trình tài liệu, chứng cứ, nếu có để chứng minh cho lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng.
Trường hợp đơn kháng cáo chưa làm đúng quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật này thì Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo sửa đổi, bổ sung.
Điều 247. Kháng cáo quá hạn
1. Kháng cáo quá thời hạn quy định tại Điều 245 của Bộ luật này là kháng cáo quá hạn. Sau khi nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Toà án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ, nếu có cho Toà án cấp phúc thẩm.
2. Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Toà án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm ba Thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn. Hội đồng có quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định. Toà án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định cho người kháng cáo quá hạn và Toà án cấp sơ thẩm; nếu Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận việc kháng cáo quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục do Bộ luật này quy định và gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm.
Điều 248. Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
1. Sau khi chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ, Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo cho người kháng cáo biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật, nếu họ không thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí phúc thẩm.
2. Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Toà án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Hết thời hạn này mà người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì được coi là họ từ bỏ việc kháng cáo, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
Điều 249. Thông báo về việc kháng cáo
1. Sau khi chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ, Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo ngay bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có liên quan đến kháng cáo biết về việc kháng cáo.
2. Người được thông báo về việc kháng cáo có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng cáo cho Toà án cấp phúc thẩm. Văn bản nêu ý kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án.
Điều 250. Kháng nghị của Viện kiểm sát
Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Điều 251. Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát
1. Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát phải bằng văn bản và có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết định kháng nghị và số của quyết định kháng nghị;
b) Tên của Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị;
c) Kháng nghị phần nào của bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật;
d) Lý do của việc kháng nghị và yêu cầu của Viện kiểm sát;
đ) Họ, tên của người ký quyết định kháng nghị và đóng dấu của Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị.
2. Quyết định kháng nghị phải được gửi ngay cho Toà án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị để Toà án cấp sơ thẩm tiến hành các thủ tục do Bộ luật này quy định và gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 255 của Bộ luật này.
3. Kèm theo quyết định kháng nghị là tài liệu, chứng cứ bổ sung, nếu có để chứng minh cho kháng nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ và hợp pháp.
Điều 252. Thời hạn kháng nghị
1. Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên toà thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án.
2. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định.
Điều 253. Thông báo về việc kháng nghị
1. Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị phải gửi ngay quyết định kháng nghị cho đương sự có liên quan đến kháng nghị.
2. Người được thông báo về việc kháng nghị có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng nghị cho Toà án cấp phúc thẩm. Văn bản nêu ý kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án.
Điều 254. Hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị
1. Những phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành ngay.
2. Bản án, quyết định hoặc những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Điều 255. Gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị
Toà án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Toà án cấp phúc thẩm trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày:
1. Hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nếu người kháng cáo không phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm;
2. Người kháng cáo nộp cho Toà án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.
Điều 256. Thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị
1. Trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết.
2. Trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo có quyền rút kháng cáo, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền rút kháng nghị.
Toà án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng nghị.
3. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên toà phải được làm thành văn bản và gửi cho Toà án cấp phúc thẩm. Toà án cấp phúc thẩm phải thông báo cho các đương sự biết về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị.
Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên toà.

Chương XVI
Chuẩn bị xét xử phúc thẩm

Điều 257. Thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm
1. Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Toà án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý.
2. Chánh án Toà án cấp phúc thẩm hoặc Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công một Thẩm phán làm chủ toạ phiên toà.
Điều 258. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
1. Trong thời hạn hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, tuỳ từng trường hợp, Toà án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau đây:
a) Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;
b) Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;
c) Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án cấp phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không được quá một tháng.
2. Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà phúc thẩm; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng.
3. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị.
Điều 259. Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án
Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, hậu quả của việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án và tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án được thực hiện theo quy định tại các điều 189, 190 và 191 của Bộ luật này.
Điều 260. Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án
1. Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án trong các trường hợp sau đây:
a) Trong các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này;
b) Người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị;
c) Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
2. Trong trường hợp Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này thì bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Điều 261. Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Chương VIII của Bộ luật này.
Điều 262. Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu
1. Sau khi thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu.
2. Thời hạn nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án; hết thời hạn đó, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ vụ án cho Toà án.

Chương XVII
Thủ tục Xét xử phúc thẩm

Điều 263. Phạm vi xét xử phúc thẩm
Toà án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị.
Điều 264. Những người tham gia phiên toà phúc thẩm
1. Người kháng cáo, đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải được triệu tập tham gia phiên toà. Toà án có thể triệu tập những người tham gia tố tụng khác tham gia phiên toà nếu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị.
2. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc đã tham gia phiên toà sơ thẩm.
Điều 265. Tạm đình chỉ, đình chỉ xét xử phúc thẩm tại phiên toà
Tại phiên toà phúc thẩm, việc tạm đình chỉ, đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án được thực hiện theo quy định tại Điều 259 và Điều 260 của Bộ luật này.
Điều 266. Hoãn phiên toà phúc thẩm
1. Trường hợp Kiểm sát viên phải tham gia phiên toà vắng mặt thì phải hoãn phiên toà.
2. Người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc kháng cáo và Toà án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm phần vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt.
3. Người tham gia tố tụng khác không phải là người kháng cáo vắng mặt tại phiên toà thì việc hoãn phiên toà hay vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại các điều 199, 200, 201, 202, 203, 204, 205 và 206 của Bộ luật này.
4. Thời hạn hoãn phiên toà và quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 208 của Bộ luật này.
Điều 267. Chuẩn bị khai mạc phiên toà phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm
Chuẩn bị khai mạc phiên toà phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại các điều 212, 213, 214, 215 và 216 của Bộ luật này.
Điều 268. Việc hỏi tại phiên toà
1. Sau khi kết thúc thủ tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm thì một thành viên của Hội đồng xét xử phúc thẩm công bố nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị.
2. Chủ toạ phiên toà hỏi về các vấn đề sau đây:
a) Hỏi nguyên đơn có rút đơn khởi kiện hay không;
b) Hỏi người kháng cáo, Kiểm sát viên có thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị hay không;
c) Hỏi các đương sự có thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không.
Điều 269. Nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm
1. Trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau:
a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn;
b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Toà án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
2. Trong trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thì nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án theo thủ tục do Bộ luật này quy định nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
Điều 270. Công nhận sự thoả thuận của các đương sự tại phiên toà phúc thẩm
1. Tại phiên toà phúc thẩm, nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thoả thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
2. Các đương sự tự thoả thuận với nhau về việc chịu án phí sơ thẩm; nếu không thoả thuận được với nhau thì Toà án quyết định theo quy định của pháp luật.
Điều 271. Nghe lời trình bày của đương sự tại phiên toà phúc thẩm
1. Trong trường hợp có đương sự vẫn giữ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát vẫn giữ kháng nghị và các đương sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử phúc thẩm bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe lời trình bày của các đương sự theo thứ tự sau đây:
a) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo trình bày về nội dung kháng cáo và các căn cứ của việc kháng cáo. Người kháng cáo có quyền bổ sung ý kiến. Trong trường hợp tất cả các đương sự đều kháng cáo thì việc trình bày theo thứ tự người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo là nguyên đơn và nguyên đơn; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo là bị đơn và bị đơn; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trong trường hợp chỉ có Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị và các căn cứ của việc kháng nghị; trong trường hợp vừa có kháng cáo, vừa có kháng nghị thì các đương sự trình bày về nội dung kháng cáo và các căn cứ của việc kháng cáo trước, sau đó Kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị và các căn cứ của việc kháng nghị;
b) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị. Đương sự có quyền bổ sung ý kiến.
2. Trong trường hợp đương sự không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì họ tự trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị và đề nghị của mình.
3. Tại phiên toà phúc thẩm, đương sự, Kiểm sát viên có quyền xuất trình bổ sung chứng cứ.
Điều 272. Thủ tục hỏi và công bố tài liệu, xem xét vật chứng tại phiên toà phúc thẩm
1. Thủ tục hỏi những người tham gia tố tụng và công bố tài liệu, xem xét vật chứng tại phiên toà phúc thẩm được thực hiện như tại phiên toà sơ thẩm.
2. Việc hỏi phải được thực hiện đối với những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 263 của Bộ luật này.
Điều 273. Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm
Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm được thực hiện như tranh luận tại phiên toà sơ thẩm, thứ tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện theo quy định tại Điều 271 của Bộ luật này và chỉ được tranh luận về những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm và đã được hỏi tại phiên toà phúc thẩm.
Điều 274. Nghị án và tuyên án
Việc nghị án, trở lại việc hỏi và tranh luận, thời gian nghị án, tuyên án, sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm được thực hiện như thủ tục sơ thẩm.
Điều 275. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
Hội đồng xét xử phúc thẩm có các quyền sau đây:
1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm;
2. Sửa bản án sơ thẩm;
3. Huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án;
4. Huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Điều 276. Sửa bản án sơ thẩm
Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm nếu Toà án cấp sơ thẩm quyết định không đúng pháp luật trong các trường hợp sau đây:
1. Việc chứng minh và thu thập chứng cứ đã thực hiện đầy đủ và theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật này;
2. Việc chứng minh và thu thập chứng cứ chưa thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm nhưng tại phiên toà phúc thẩm đã được bổ sung đầy đủ.
Điều 277. Huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án
Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án trong các trường hợp sau đây:
1. Việc chứng minh và thu thập chứng cứ không theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật này hoặc chưa được thực hiện đầy đủ mà tại phiên toà phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được;
2. Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng quy định của Bộ luật này hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.
Điều 278. Huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án
Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 192 của Bộ luật này.
Điều 279. Bản án phúc thẩm
1. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Bản án phúc thẩm gồm có:
a) Phần mở đầu;
b) Phần nội dung vụ án, kháng cáo, kháng nghị, nhận định;
c) Phần quyết định.
3. Trong phần mở đầu phải ghi rõ tên của Toà án xét xử phúc thẩm; số và ngày thụ lý vụ án; số bản án và ngày tuyên án; họ, tên của các thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch; tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức khởi kiện; người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; người kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị; xét xử công khai hoặc xét xử kín; thời gian và địa điểm xét xử.
4. Trong phần nội dung vụ án, kháng cáo, kháng nghị, nhận định phải tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm; nội dung kháng cáo, kháng nghị; nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm; điểm, khoản và điều của văn bản quy phạm pháp luật mà Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ để giải quyết vụ án.
Trong nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm phải phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị.
5. Trong phần quyết định phải ghi rõ các quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án do có kháng cáo, kháng nghị, về việc phải chịu án phí sơ thẩm, phúc thẩm.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Điều 280. Thủ tục phúc thẩm đối với quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị
1. Khi phúc thẩm đối với quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng phúc thẩm không phải mở phiên toà, không phải triệu tập các đương sự, trừ trường hợp cần phải nghe ý kiến của họ trước khi ra quyết định.
2. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên họp phúc thẩm quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị.
3. Một thành viên của Hội đồng phúc thẩm xét quyết định bị kháng cáo, kháng nghị trình bày tóm tắt nội dung quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, nội dung của kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có.
4. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị trước khi Hội đồng phúc thẩm ra quyết định.
5. Khi xem xét quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng phúc thẩm có quyền:
a) Giữ nguyên quyết định của Toà án cấp sơ thẩm;
b) Sửa quyết định của Toà án cấp sơ thẩm;
c) Huỷ quyết định của Toà án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án.
6. Quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
Điều 281. Gửi bản án, quyết định phúc thẩm
Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày ra bản án, quyết định phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm phải gửi bản án, quyết định phúc thẩm cho Toà án đã xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền, người đã kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ.
Trong trường hợp Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm thì thời hạn này có thể dài hơn nhưng không quá hai mươi lăm ngày.

Phần thứ tư
Thủ tục xét lại bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật

Chương XVIII
Thủ tục giám đốc thẩm

Điều 282. Tính chất của giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Điều 283. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Điều 284. Phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm
1. Đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 285 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, Viện kiểm sát, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 285 của Bộ luật này.
Điều 285. Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
1. Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
2. Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện.
Điều 286. Hoãn, tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
1. Người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án có quyền yêu cầu hoãn thi hành bản án, quyết định để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc hoãn thi hành án được thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự.
2. Người đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm.
Điều 287. Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm
Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm phải có các nội dung chính sau đây:
1. Số, ngày, tháng, năm của quyết định kháng nghị;
2. Chức vụ của người ra quyết định kháng nghị;
3. Số, ngày, tháng, năm của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị;
4. Quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị;
5. Nhận xét, phân tích những vi phạm, sai lầm của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị;
6. Căn cứ pháp luật để quyết định kháng nghị;
7. Quyết định kháng nghị một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
8. Tên của Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm vụ án đó;
9. Đề nghị của người kháng nghị.
Điều 288. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ được tiến hành việc kháng nghị trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.
Điều 289. Thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị giám đốc thẩm
1. Người đã kháng nghị giám đốc thẩm có quyền thay đổi, bổ sung quyết định kháng nghị, nếu chưa hết thời hạn kháng nghị quy định tại Điều 288 của Bộ luật này.
2. Người đã kháng nghị có quyền rút một phần hoặc toàn bộ quyết định kháng nghị trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà giám đốc thẩm.
Điều 290. Gửi quyết định kháng nghị giám đốc thẩm
1. Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm phải được gửi ngay cho Toà án ra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các đương sự, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị.
2. Trong trường hợp Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh kháng nghị thì quyết định kháng nghị cùng hồ sơ vụ án phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp. Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án; hết thời hạn đó, Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm.
3. Trong trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh kháng nghị thì quyết định kháng nghị phải được gửi ngay cho Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm.
Điều 291. Thẩm quyền giám đốc thẩm
1. Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị.
2. Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động của Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng nghị.
3. Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động của Toà án nhân dân tối cao bị kháng nghị.
4. Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của các cấp Toà án khác nhau được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Toà án có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án.
Điều 292. Những người tham gia phiên toà giám đốc thẩm
1. Phiên toà giám đốc thẩm phải có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp.
2. Khi xét thấy cần thiết, Toà án triệu tập những người tham gia tố tụng và những người khác có liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên toà giám đốc thẩm.
Điều 293. Thời hạn mở phiên toà giám đốc thẩm
Trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án, Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm phải mở phiên toà để giám đốc thẩm vụ án.
Điều 294. Chuẩn bị phiên toà giám đốc thẩm
Chánh án Toà án phân công một Thẩm phán làm bản thuyết trình về vụ án tại phiên toà. Bản thuyết trình tóm tắt nội dung vụ án và các bản án, quyết định của các cấp Toà án, nội dung của kháng nghị. Bản thuyết trình phải được gửi trước cho các thành viên Hội đồng giám đốc thẩm chậm nhất là bảy ngày trước ngày mở phiên toà giám đốc thẩm.
Điều 295. Thủ tục phiên toà giám đốc thẩm
1. Sau khi chủ toạ khai mạc phiên toà, một thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án, quyết định của bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các căn cứ, nhận định của kháng nghị và đề nghị của người kháng nghị. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về quyết định kháng nghị.
2. Trong trường hợp có người tham gia tố tụng hoặc người khác được Toà án triệu tập tham gia phiên toà giám đốc thẩm thì họ được trình bày ý kiến của mình về quyết định kháng nghị. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về quyết định kháng nghị.
3. Các thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm thảo luận và phát biểu ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
4. Hội đồng giám đốc thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án.
Quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành.
Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết theo trình tự tán thành, không tán thành với kháng nghị và ý kiến khác; nếu không có trường hợp nào được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành thì phải hoãn phiên toà. Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên toà, Uỷ ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán phải tiến hành xét xử lại với sự tham gia của toàn thể các thành viên.
Điều 296. Phạm vi giám đốc thẩm
1. Hội đồng giám đốc thẩm chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị.
2. Hội đồng giám đốc thẩm có quyền xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần quyết định đó xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án.
Điều 297. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm
Hội đồng giám đốc thẩm có các quyền sau đây:
1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
2. Giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa;
3. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại;
4. Huỷ bản án, quyết định của Toà án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải quyết vụ án.
Điều 298. Giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa
Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp dưới xét xử đúng pháp luật, nhưng đã bị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị huỷ bỏ hoặc sửa đổi một phần hay toàn bộ.
Điều 299. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại
Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại trong các trường hợp sau đây:
1. Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa thực hiện đầy đủ hoặc không theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật này;
2. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật;
3. Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không đúng quy định của Bộ luật này hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.
Điều 300. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án
Hội đồng giám đốc thẩm quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án, nếu vụ án đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 192 của Bộ luật này.
Điều 301. Quyết định giám đốc thẩm
1. Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Quyết định giám đốc thẩm phải có các nội dung sau đây:
a) Ngày, tháng, năm và địa điểm mở phiên toà;
b) Họ, tên các thành viên Hội đồng giám đốc thẩm. Trường hợp Hội đồng giám đốc thẩm là Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì ghi họ, tên, chức vụ của chủ toạ phiên toà và số lượng thành viên tham gia xét xử;
c) Họ, tên Thư ký Toà án, Kiểm sát viên tham gia phiên toà;
d) Tên vụ án mà Hội đồng đưa ra xét xử giám đốc thẩm;
đ) Tên, địa chỉ của các đương sự trong vụ án;
e) Tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị;
g) Quyết định kháng nghị, lý do kháng nghị;
h) Nhận định của Hội đồng giám đốc thẩm trong đó phải phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng nghị;
i) Điểm, khoản, điều của Bộ luật tố tụng dân sự mà Hội đồng giám đốc thẩm căn cứ để ra quyết định;
k) Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm.
Điều 302. Hiệu lực của quyết định giám đốc thẩm
Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định.
Điều 303. Gửi quyết định giám đốc thẩm
Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng giám đốc thẩm phải gửi quyết định giám đốc thẩm cho:
1. Đương sự và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quyết định giám đốc thẩm;
2. Toà án ra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị;
3. Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Chương XIX
Thủ tục tái thẩm

Điều 304. Tính chất của tái thẩm
Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không biết được khi Toà án ra bản án, quyết định đó.
Điều 305. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
2. Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
3. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;
4. Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Toà án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị huỷ bỏ.
Điều 306. Thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện
1. Đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền phát hiện tình tiết mới của vụ án và thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 307 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp phát hiện tình tiết mới của vụ án, Viện kiểm sát, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 307 của Bộ luật này.
Điều 307. Người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
1. Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
2. Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện.
3. Người đã kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định tái thẩm.
Điều 308. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại Điều 305 của Bộ luật này.
Điều 309. Thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm
Hội đồng tái thẩm có các quyền sau đây:
1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
2. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục do Bộ luật này quy định;
3. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án.
Điều 310. Áp dụng các quy định của thủ tục giám đốc thẩm
Các quy định khác về thủ tục tái thẩm được thực hiện như các quy định về thủ tục giám đốc thẩm tại Bộ luật này.

Phần thứ năm
Thủ tục giải quyết việc dân sự

Chương XX
Quy định chung về thủ tục giải quyết việc dân sự

Điều 311. Phạm vi áp dụng
Toà án áp dụng những quy định của Chương này, đồng thời áp dụng những quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này để giải quyết những việc dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 6 Điều 26, các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 7 Điều 28, khoản 1 và khoản 4 Điều 30, khoản 3 Điều 32 của Bộ luật này.
Việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp, nhưng có yêu cầu Toà án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu Toà án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.
Điều 312. Đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự
1. Người yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự phải gửi đơn đến Toà án có thẩm quyền quy định tại mục 2 Chương III của Bộ luật này.
2. Đơn yêu cầu phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm viết đơn;
b) Tên Toà án có thẩm quyền giải quyết đơn;
c) Tên, địa chỉ của người yêu cầu;
d) Những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết và lý do, mục đích, căn cứ của việc yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự đó;
đ) Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến việc giải quyết đơn yêu cầu, nếu có;
e) Các thông tin khác mà người yêu cầu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu;
g) Người yêu cầu là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ, nếu là cơ quan, tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn.
3. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Điều 313. Những người tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự
1. Toà án phải mở phiên họp công khai để giải quyết việc dân sự.
Sau khi ra quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, Toà án phải gửi ngay quyết định này và hồ sơ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu. Viện kiểm sát phải nghiên cứu trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Toà án để mở phiên họp giải quyết việc dân sự.
2. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham dự phiên họp; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên họp.
3. Người có đơn yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp của họ phải tham gia phiên họp theo giấy triệu tập của Toà án.
Người có đơn yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì Toà án hoãn phiên họp. Trường hợp người có đơn yêu cầu đề nghị giải quyết việc dân sự không có sự tham gia của họ thì Toà án giải quyết việc dân sự vắng mặt họ; nếu người có đơn yêu cầu đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu và Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự; trong trường hợp này, quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự đó theo thủ tục do Bộ luật này quy định vẫn được bảo đảm.
4. Người có liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ được Toà án triệu tập tham gia phiên họp. Trong trường hợp cần thiết, Toà án có thể triệu tập người làm chứng, người giám định, người phiên dịch tham gia phiên họp; nếu có người vắng mặt thì Toà án quyết định hoãn phiên họp hoặc vẫn tiến hành phiên họp.
Điều 314. Thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự
1. Phiên họp giải quyết việc dân sự được tiến hành theo trình tự sau đây:
a) Thư ký Toà án báo cáo về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên họp;
b) Thẩm phán khai mạc phiên họp, kiểm tra về sự có mặt, vắng mặt của những người được triệu tập tham gia phiên họp và căn cước của họ;
c) Người yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày về những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết, lý do, mục đích và căn cứ của việc yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự đó;
d) Người có liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày ý kiến của mình về những vấn đề có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của họ trong việc giải quyết việc dân sự;
đ) Người làm chứng trình bày ý kiến; người giám định trình bày kết luận giám định, giải thích những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn;
e) Xem xét tài liệu, chứng cứ;
g) Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết việc dân sự;
h) Thẩm phán xem xét, quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu giải quyết việc dân sự.
2. Trong trường hợp có người vắng mặt thì Thẩm phán cho công bố lời khai, tài liệu, chứng cứ do người đó cung cấp hoặc đã khai với Toà án.
Điều 315. Quyết định giải quyết việc dân sự
1. Quyết định giải quyết việc dân sự phải có các nội dung sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết định;
b) Tên Toà án ra quyết định;
c) Họ, tên của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án;
d) Tên, địa chỉ của người yêu cầu giải quyết việc dân sự;
đ) Những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết;
e) Tên, địa chỉ của người có liên quan;
g) Nhận định của Toà án và những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu;
h) Căn cứ pháp luật để giải quyết việc dân sự;
i) Quyết định của Toà án;
k) Lệ phí phải nộp.
2. Quyết định giải quyết việc dân sự phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án có thẩm quyền, người yêu cầu giải quyết việc dân sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết định đó trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định.
Điều 316. Kháng cáo, kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự
Người yêu cầu và cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết định giải quyết việc dân sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm, trừ các quyết định quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 28 của Bộ luật này.
Điều 317. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị
1. Người yêu cầu và cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết định giải quyết việc dân sự có quyền kháng cáo quyết định đó trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết định, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 358 và khoản 1 Điều 372 của Bộ luật này. Trong trường hợp họ không có mặt tại phiên họp thì thời hạn đó tính từ ngày họ nhận được quyết định giải quyết việc dân sự hoặc kể từ ngày quyết định đó được thông báo, niêm yết.
2. Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự trong thời hạn bảy ngày, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết định, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 358 và khoản 2 Điều 372 của Bộ luật này.
Điều 318. Thủ tục phúc thẩm quyết định giải quyết việc dân sự bị kháng cáo, kháng nghị
Thủ tục phúc thẩm quyết định giải quyết việc dân sự bị kháng cáo, kháng nghị được thực hiện theo quy định tại Điều 280 của Bộ luật này.

Chương XXI
Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người
mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự

Điều 319. Đơn yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
1. Người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Đơn yêu cầu Toà án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Kèm theo đơn yêu cầu Toà án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự phải có kết luận của cơ quan chuyên môn và các chứng cứ khác để chứng minh người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
4. Kèm theo đơn yêu cầu Toà án tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có chứng cứ để chứng minh người đó nghiện ma tuý hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình.
Điều 320. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu
1. Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu Toà án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không quá ba mươi ngày, kể từ ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu; hết thời hạn đó, Toà án phải ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
2. Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, theo đề nghị của đương sự, Toà án có thể trưng cầu giám định sức khoẻ, bệnh tật của người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này, khi nhận được kết luận giám định Toà án phải ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
3. Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu.
4. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Thẩm phán phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Điều 321. Quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
1. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
2. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Trong quyết định tuyên bố bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, Toà án phải quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
Điều 322. Đơn yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
1. Khi người bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không còn ở trong tình trạng đã bị tuyên bố thì chính người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
2. Đơn yêu cầu Toà án huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
Điều 323. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu và quyết định của Toà án
1. Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu Toà án huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 320 của Bộ luật này.
2. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
3. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Chương XXII
Thủ tục giải quyết yêu cầu thông báo tìm kiếm
người vắng mặt tại nơi cư trú

Điều 324. Đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú khi người đó biệt tích trong sáu tháng liền trở lên và đồng thời có thể yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt đó theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Đơn yêu cầu Toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú phải có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Gửi kèm theo đơn yêu cầu Toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú phải có chứng cứ để chứng minh là người đó biệt tích trong sáu tháng liền trở lên. Trong trường hợp có yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt thì phải cung cấp tài liệu về tình hình tài sản của người đó, việc quản lý tài sản hiện có và danh sách những người thân thích của người đó.
Điều 325. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu
1. Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú là hai mươi ngày, kể từ ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu; hết thời hạn đó, Toà án phải ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
2. Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Toà án ra quyết định đình chỉ xét đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu hoặc người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm trở về và yêu cầu Toà án đình chỉ việc xét đơn yêu cầu.
3. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Thẩm phán phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Điều 326. Quyết định thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú
1. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú.
2. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định chấp nhận đơn yêu cầu và ra thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú; trường hợp có yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt đó tại nơi cư trú và được chấp nhận thì trong quyết định chấp nhận đơn yêu cầu Toà án còn phải quyết định áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người đó theo quy định của Bộ luật dân sự.
Điều 327. Thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú
Thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú phải có các nội dung chính sau đây:
1. Ngày, tháng, năm ra thông báo;
2. Tên Toà án ra thông báo;
3. Số và ngày, tháng, năm của quyết định Toà án chấp nhận đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú;
4. Tên, địa chỉ của người yêu cầu Toà án thông báo;
5. Họ, tên và ngày, tháng, năm sinh hoặc tuổi của người cần tìm kiếm và địa chỉ cư trú của người đó trước khi biệt tích;
6. Địa chỉ liên hệ của cá nhân, cơ quan, tổ chức, nếu người cần tìm kiếm biết được thông báo hoặc người khác có được tin tức về người cần tìm kiếm.
Điều 328. Công bố thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú
1. Thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú phải được đăng trên báo hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp và phát sóng trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong ba ngày liên tiếp.
2. Chi phí cho việc đăng, phát thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú do người yêu cầu chịu.
Điều 329. Hiệu lực của quyết định thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú
Quyết định thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại Điều 326 của Bộ luật này đương nhiên hết hiệu lực trong trường hợp người cần tìm kiếm trở về.

Chương XXIII
Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích

Điều 330. Đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố một người mất tích theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Đơn yêu cầu Toà án tuyên bố một người mất tích phải có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố mất tích đã biệt tích hai năm liền trở lên mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hoặc đã chết và chứng minh cho việc người yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo tìm kiếm. Trong trường hợp trước đó đã có quyết định của Toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú thì phải có bản sao quyết định đó.
Điều 331. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu
1. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích, Toà án ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích.
2. Nội dung thông báo và công bố thông báo được thực hiện theo quy định tại Điều 327 và Điều 328 của Bộ luật này. Thời hạn thông báo là bốn tháng, kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên.
3. Trong thời hạn công bố thông báo, nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu hoặc người bị yêu cầu tuyên bố mất tích trở về và yêu cầu Toà án đình chỉ việc xét đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích.
Điều 332. Quyết định tuyên bố một người mất tích
1. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hết thời hạn công bố thông báo, Toà án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích.
2. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu.
3. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định tuyên bố mất tích; trường hợp có yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích đó và được chấp nhận thì trong quyết định Toà án còn phải quyết định áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người đó theo quy định của Bộ luật dân sự.
Điều 333. Đơn yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích
1. Khi người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích.
2. Đơn yêu cầu Toà án huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích phải có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là chứng cứ để chứng minh người bị tuyên bố mất tích đã trở về hoặc chứng minh xác thực là người đó còn sống.
Điều 334. Quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích
1. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích, Toà án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
2. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu.
3. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích, trong đó phải quyết định về hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích theo quy định của Bộ luật dân sự.

Chương XXIV
Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết

Điều 335. Đơn yêu cầu tuyên bố một người là đã chết
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố một người là đã chết theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Đơn yêu cầu Toà án tuyên bố một người là đã chết phải có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết thuộc trường hợp theo quy định của Bộ luật dân sự.
Điều 336. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu
1. Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu tuyên bố một người là đã chết không quá ba mươi ngày, kể từ ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu; hết thời hạn đó, Toà án phải ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
2. Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Toà án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu tuyên bố một người là đã chết nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu hoặc người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết trở về và yêu cầu Toà án đình chỉ việc xét đơn yêu cầu.
3. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Toà án phải mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
Điều 337. Quyết định tuyên bố một người là đã chết
1. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu tuyên bố một người là đã chết.
2. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết; trong quyết định này, Toà án phải xác định ngày chết của người đó và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố một người là đã chết theo quy định của Bộ luật dân sự.
Điều 338. Đơn yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết
1. Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết.
2. Đơn yêu cầu Toà án huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết phải có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là chứng cứ để chứng minh người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc chứng minh xác thực là người đó còn sống.
Điều 339. Quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết
1. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết, Toà án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
2. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu.
3. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết; trong quyết định này, Toà án phải quyết định về hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết theo quy định của Bộ luật dân sự.

Chương XXV
Thủ tục giải quyết các việc dân liên quan đến
hoạt động trọng tài thương mại Việt Nam

Điều 340. Những việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
1. Chỉ định, thay đổi Trọng tài viên.
2. Áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
3. Huỷ quyết định trọng tài.
4. Các việc dân sự khác mà pháp luật về Trọng tài thương mại Việt Nam có quy định.
Điều 341. Thủ tục giải quyết
Thủ tục giải quyết các việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại Việt Nam.

Phần thứ sáu
Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài

Chương XXVI
Quy định chung về thủ tục công nhận và cho thi hành
tại Việt nam bản án, quyết định dân sự của toà án
nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài

Điều 342. Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài
1. Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài là bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Toà án nước ngoài và bản án, quyết định khác của Toà án nước ngoài mà theo pháp luật của Việt Nam được coi là bản án, quyết định dân sự.
2. Quyết định của Trọng tài nước ngoài là quyết định được tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam của Trọng tài nước ngoài do các bên thoả thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại, lao động.
Điều 343. Nguyên tắc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài
1. Toà án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài trong các trường hợp sau đây:
a) Bản án, quyết định dân sự của Toà án của nước mà Việt Nam và nước đó đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề này;
b) Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài được pháp luật Việt Nam quy định công nhận và cho thi hành.
2. Toà án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài trong trường hợp quyết định được tuyên tại nước hoặc của Trọng tài của nước mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề này.
3. Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài cũng có thể được Toà án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trên cơ sở có đi có lại mà không đòi hỏi Việt Nam và nước đó phải ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề đó.
4. Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài hoặc quyết định của Trọng tài nước ngoài chỉ được thi hành tại Việt Nam sau khi được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành.
5. Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam và không có đơn yêu cầu không công nhận thì đương nhiên được công nhận tại Việt Nam theo điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.
6. Toà án Việt Nam chỉ xem xét việc không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam khi có đơn yêu cầu không công nhận.
Điều 344. Quyền yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài
1. Người được thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài, nếu cá nhân phải thi hành cư trú, làm việc tại Việt Nam hoặc cơ quan, tổ chức phải thi hành có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài có tại Việt Nam vào thời điểm gửi đơn yêu cầu.
2. Đương sự, người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án Việt Nam không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
Điều 345. Bảo đảm quyền kháng cáo, kháng nghị
Đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị quyết định của Toà án Việt Nam công nhận hoặc không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp xét lại theo quy định của Bộ luật này.
Điều 346. Bảo đảm hiệu lực của quyết định của Toà án Việt Nam công nhận hoặc không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài
1. Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam có hiệu lực pháp luật như bản án, quyết định dân sự của Toà án Việt Nam đã có hiệu lực pháp luật và được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không được Toà án Việt Nam công nhận thì không có hiệu lực pháp luật tại Việt Nam.
2. Quyết định của Trọng tài nước ngoài được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam có hiệu lực pháp luật như quyết định của Toà án Việt Nam đã có hiệu lực pháp luật và được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự.
Điều 347. Thông báo kết quả xét đơn yêu cầu
Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày ra quyết định, Toà án Việt Nam thông qua Bộ Tư pháp thông báo kết quả việc xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài cho Toà án nước ngoài đã ra bản án, quyết định đó, các đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến quyết định đó; thông báo kết quả xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã gửi đơn yêu cầu và cá nhân, cơ quan tổ chức khác có liên quan đến quyết định đó của Toà án Việt Nam.
Điều 348. Bảo đảm quyền chuyển tiền, tài sản thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài
Nhà nước Việt Nam bảo đảm việc chuyển tiền, tài sản thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành từ Việt Nam ra nước ngoài. Việc chuyển tiền, tài sản này được thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Điều 349. Lệ phí công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài
Người gửi đơn yêu cầu Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài phải nộp một khoản lệ phí theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Chương XXVII
Thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài

Điều 350. Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành
1. Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài phải được gửi đến Bộ Tư pháp Việt Nam và phải có các nội dung chính sau đây:
a) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người được thi hành, người đại diện hợp pháp của người đó; nếu người được thi hành án là cơ quan, tổ chức thì phải ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức đó;
b) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người phải thi hành; nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức thì ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp người phải thi hành là cá nhân không có nơi cư trú hoặc nơi làm việc tại Việt Nam, người phải thi hành là cơ quan, tổ chức không có trụ sở chính tại Việt Nam thì trong đơn yêu cầu còn phải ghi rõ địa chỉ nơi có tài sản và các loại tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài tại Việt Nam;
c) Yêu cầu của người được thi hành; trường hợp bản án, quyết định của Toà án nước ngoài đã được thi hành một phần thì người được thi hành phải ghi rõ phần đã được thi hành và phần còn lại có yêu cầu công nhận và cho thi hành tiếp tại Việt Nam.
3. Đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
Điều 351. Giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu
1. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là các giấy tờ, tài liệu được quy định trong điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Trong trường hợp điều ước quốc tế không quy định hoặc không có điều ước quốc tế liên quan thì kèm theo đơn yêu cầu phải có bản sao hợp pháp bản án, quyết định của Toà án nước ngoài; văn bản xác nhận bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật, chưa hết thời hiệu thi hành và cần được thi hành tại Việt Nam, trừ trường hợp trong bản án, quyết định đó đã thể hiện rõ những điểm này; văn bản xác nhận việc đã gửi cho người phải thi hành bản sao bản án, quyết định đó. Trường hợp người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó vắng mặt tại phiên toà của Toà án nước ngoài thì phải có văn bản xác nhận người đó đã được triệu tập hợp lệ.
2. Các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
Điều 352. Chuyển hồ sơ cho Toà án
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, các giấy tờ, tài liệu kèm theo, Bộ Tư pháp phải chuyển hồ sơ đến Toà án có thẩm quyền theo quy định tại Điều 34 và Điều 35 của Bộ luật này.
Điều 353. Thụ lý hồ sơ và yêu cầu giải thích
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Bộ Tư pháp chuyển đến, Toà án có thẩm quyền phải thụ lý và thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.
2. Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Toà án có quyền yêu cầu người gửi đơn, Toà án nước ngoài đã ra bản án, quyết định giải thích những điểm chưa rõ trong hồ sơ.
Văn bản yêu cầu giải thích và văn bản trả lời được gửi thông qua Bộ Tư pháp Việt Nam.
3. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của Toà án Việt Nam yêu cầu giải thích, Bộ Tư pháp gửi cho người gửi đơn yêu cầu hoặc Toà án nước ngoài văn bản yêu cầu giải thích đó.
4. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lời yêu cầu giải thích, Bộ Tư pháp gửi cho Toà án Việt Nam đã yêu cầu văn bản trả lời đó.
Điều 354. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu
1. Trong thời hạn bốn tháng kể từ ngày thụ lý, tuỳ từng trường hợp mà Toà án ra một trong các quyết định sau đây:
a) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu, nếu người gửi đơn rút đơn yêu cầu hoặc người phải thi hành đã tự nguyện thi hành hoặc người phải thi hành là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của người đó không được thừa kế hoặc nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó đã được giải quyết theo quy định của pháp luật Việt Nam;
b) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu và trả lại hồ sơ cho Bộ Tư pháp trong trường hợp không đúng thẩm quyền hoặc không xác định được địa chỉ của người phải thi hành hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành;
c) Mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Trong trường hợp Toà án yêu cầu giải thích theo quy định tại khoản 2 Điều 353 của Bộ luật này thì thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu được kéo dài thêm hai tháng.
2. Toà án phải mở phiên họp trong thời hạn một tháng, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Toà án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu trong thời hạn mười lăm ngày trước ngày mở phiên họp; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải gửi trả lại hồ sơ cho Toà án để mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Điều 355. Phiên họp xét đơn yêu cầu
1. Việc xét đơn yêu cầu được tiến hành tại phiên họp do một Hội đồng xét đơn yêu cầu gồm ba Thẩm phán, trong đó một Thẩm phán làm chủ toạ theo sự phân công của Chánh án Toà án.
2. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên họp.
3. Phiên họp được tiến hành với sự có mặt của người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ; nếu họ vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên họp.
Việc xét đơn yêu cầu vẫn được tiến hành nếu người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ có đơn yêu cầu Toà án xét đơn vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.
4. Hội đồng không xét xử lại vụ án mà chỉ kiểm tra, đối chiếu bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, các giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn yêu cầu với các quy định của Bộ luật này, các quy định khác của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có liên quan để quyết định.
5. Sau khi xem xét đơn yêu cầu, các giấy tờ, tài liệu kèm theo, nghe ý kiến của người được triệu tập, của Kiểm sát viên, Hội đồng thảo luận và quyết định theo đa số.
Hội đồng có quyền ra quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc quyết định không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài.
Điều 356. Những bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
1. Bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật của nước có Toà án đã ra bản án, quyết định đó.
2. Người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó đã vắng mặt tại phiên toà của Toà án nước ngoài do không được triệu tập hợp lệ.
3. Vụ án thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt của Toà án Việt Nam.
4. Về cùng vụ án này đã có bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Toà án Việt Nam hoặc của Toà án nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận hoặc trước khi cơ quan xét xử của nước ngoài thụ lý vụ án, Toà án Việt Nam đã thụ lý và đang giải quyết vụ án đó.
5. Đã hết thời hiệu thi hành án theo pháp luật của nước có Toà án đã ra bản án, quyết định dân sự đó hoặc theo pháp luật Việt Nam.
6. Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Điều 357. Gửi quyết định của Toà án
Ngay sau khi ra quyết định quy định tại Điều 354 và Điều 355 của Bộ luật này, Toà án gửi cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp quyết định đó; nếu đương sự ở nước ngoài thì quyết định được gửi thông qua Bộ Tư pháp.
Điều 358. Kháng cáo, kháng nghị
1. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày Toà án ra quyết định quy định tại Điều 354 và Điều 355 của Bộ luật này, đương sự, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo quyết định đó; trường hợp đương sự, người đại diện hợp pháp của họ không có mặt tại phiên họp xét đơn yêu cầu thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được quyết định đó. Đơn kháng cáo phải nêu rõ lý do và yêu cầu kháng cáo.
Trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho đương sự, người đại diện hợp pháp của họ không thể kháng cáo trong thời hạn nêu trên thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn kháng cáo.
2. Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị quyết định của Toà án quy định tại Điều 354 và Điều 355 của Bộ luật này.
Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là ba mươi ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết định.
Điều 359. Xét kháng cáo, kháng nghị
1. Toà án nhân dân tối cao xét quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ; trường hợp cần phải yêu cầu giải thích theo quy định tại Điều 353 của Bộ luật này thì thời hạn này được kéo dài, nhưng không quá hai tháng.
2. Thành phần Hội đồng xét quyết định bị kháng cáo, kháng nghị gồm ba Thẩm phán, trong đó một Thẩm phán làm chủ toạ theo sự phân công của Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao.
Phiên họp xét lại quyết định bị kháng cáo, kháng nghị được tiến hành như phiên họp xét đơn yêu cầu quy định tại Điều 355 của Bộ luật này.
3. Hội đồng có quyền giữ nguyên, sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc đình chỉ việc xét kháng cáo, kháng nghị trong trường hợp đương sự rút kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng nghị hoặc có căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 354 của Bộ luật này.
Quyết định của Toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành.

Chương XXVIII
Thủ tục Xét đơn yêu cầu không công nhận bản án,
quyết định dân sự của toà án nước ngoài
không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam

Điều 360. Thời hạn gửi đơn yêu cầu không công nhận
1. Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày nhận được bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam, đương sự, người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án Việt Nam không công nhận bản án, quyết định dân sự đó đến Bộ Tư pháp Việt Nam.
2. Trong trường hợp người làm đơn chứng minh được vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà không thể gửi đơn đúng thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn gửi đơn.
Việc khôi phục thời hiệu do Chánh án Toà án thụ lý đơn xét và quyết định.
Điều 361. Đơn yêu cầu không công nhận
1. Đơn yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài phải có các nội dung chính sau đây:
a) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người làm đơn; nếu là cơ quan, tổ chức thì ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức đó;
b) Yêu cầu của người làm đơn.
2. Kèm theo đơn yêu cầu phải có bản sao hợp pháp bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài và các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh yêu cầu không công nhận của mình là có căn cứ.
3. Đơn yêu cầu và các giấy tờ, tài liệu kèm theo bằng tiếng nước ngoài phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
4. Việc chuyển đơn yêu cầu và các giấy tờ, tài liệu kèm theo đến Toà án có thẩm quyền được thực hiện theo quy định tại Điều 352 của Bộ luật này.
Điều 362. Xét đơn yêu cầu không công nhận
1. Việc chuẩn bị xét đơn yêu cầu và việc xét đơn yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài được tiến hành theo quy định tại Điều 354 và Điều 355 của Bộ luật này.
2. Hội đồng xét đơn yêu cầu có quyền ra một trong các quyết định sau đây:
a) Không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài;
b) Bác đơn yêu cầu không công nhận.
3. Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam không được công nhận trong các trường hợp quy định tại Điều 356 của Bộ luật này.
Điều 363. Gửi quyết định của Toà án và việc kháng cáo, kháng nghị
Việc gửi quyết định của Toà án; việc kháng cáo, kháng nghị và xét kháng cáo, kháng nghị được thực hiện theo quy định tại các điều 357, 358 và 359 của Bộ luật này.

Chương XXIX
Thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài

Điều 364. Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài
1. Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài phải được gửi đến Bộ Tư pháp Việt Nam và phải có các nội dung chính sau đây:
a) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người được thi hành, người đại diện hợp pháp tại Việt Nam của người đó; nếu người được thi hành án là cơ quan, tổ chức thì phải ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức đó;
b) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người phải thi hành; nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức thì ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp người phải thi hành là cá nhân không có nơi cư trú hoặc nơi làm việc tại Việt Nam, người phải thi hành là cơ quan, tổ chức không có trụ sở chính tại Việt Nam thì trong đơn yêu cầu còn phải ghi rõ địa chỉ nơi có tài sản và các loại tài sản liên quan đến việc thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam;
c) Yêu cầu của người được thi hành.
2. Đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
Điều 365. Giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu
1. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là các giấy tờ, tài liệu được quy định tại điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Trong trường hợp điều ước quốc tế không quy định hoặc không có điều ước quốc tế liên quan thì kèm theo đơn yêu cầu phải có bản sao hợp pháp quyết định của Trọng tài nước ngoài; bản sao hợp pháp thoả thuận trọng tài của các bên về việc giải quyết tranh chấp có thể hoặc đã phát sinh giữa họ với nhau theo thể thức trọng tài mà pháp luật của nước hữu quan quy định có thể giải quyết được theo thể thức đó.
Thoả thuận trọng tài có thể là điều khoản về Trọng tài đã được ghi trong hợp đồng hoặc thoả thuận riêng về Trọng tài được các bên ký kết sau khi phát sinh tranh chấp.
2. Giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài thì phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
Điều 366. Chuyển hồ sơ cho Toà án
1. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, các giấy tờ, tài liệu kèm theo, Bộ Tư pháp chuyển hồ sơ cho Toà án có thẩm quyền theo quy định tại Điều 34 và Điều 35 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp Bộ Tư pháp đã chuyển hồ sơ cho Toà án mà sau đó lại nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho biết đang xem xét hoặc đã huỷ bỏ, đình chỉ thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài thì Bộ Tư pháp thông báo ngay bằng văn bản cho Toà án biết.
Điều 367. Thụ lý hồ sơ
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Bộ Tư pháp chuyển đến, Toà án có thẩm quyền phải thụ lý và thông báo cho cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành và Viện kiểm sát cùng cấp biết.
2. Toà án có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đã gửi đơn yêu cầu giải thích những điểm chưa rõ trong hồ sơ.
Điều 368. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu
1. Trong thời hạn hai tháng kể từ ngày thụ lý, tuỳ từng trường hợp mà Toà án ra một trong các quyết định sau đây:
a) Tạm đình chỉ việc xét đơn yêu cầu trong trường hợp nhận được thông báo bằng văn bản của Bộ Tư pháp về việc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đang xem xét quyết định của Trọng tài nước ngoài;
b) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu, nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức được thi hành rút đơn yêu cầu hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành đã tự nguyện thi hành; cơ quan, tổ chức phải thi hành đã bị giải thể, phá sản mà quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó đã được giải quyết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc cá nhân phải thi hành đã chết mà quyền, nghĩa vụ của người đó không được thừa kế;
c) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu trong trường hợp nhận được thông báo bằng văn bản của Bộ Tư pháp về việc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài;
d) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu và trả lại hồ sơ cho Bộ Tư pháp trong trường hợp không đúng thẩm quyền hoặc cơ quan, tổ chức phải thi hành không có trụ sở chính tại Việt Nam, cá nhân phải thi hành không cư trú, làm việc tại Việt Nam hoặc không xác định được địa điểm nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành tại Việt Nam;
đ) Mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Trong trường hợp Toà án yêu cầu giải thích theo quy định tại khoản 2 Điều 367 của Bộ luật này thì thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu được kéo dài thêm hai tháng.
2. Toà án phải mở phiên họp xét đơn trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu. Toà án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu trong thời hạn mười ngày, trước ngày mở phiên họp; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải gửi trả lại hồ sơ cho Toà án để mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Điều 369. Phiên họp xét đơn yêu cầu
1. Việc xét đơn yêu cầu được tiến hành tại phiên họp do một Hội đồng xét đơn yêu cầu gồm ba Thẩm phán, trong đó một Thẩm phán làm chủ toạ theo sự phân công của Chánh án Toà án.
2. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên họp.
3. Phiên họp được tiến hành với sự có mặt của người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ, nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên họp.
Việc xét đơn yêu cầu vẫn được tiến hành, nếu người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu Toà án xét đơn vắng mặt họ hoặc đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.
4. Hội đồng không xét xử lại vụ tranh chấp đã được Trọng tài nước ngoài giải quyết mà chỉ kiểm tra, đối chiếu quyết định của Trọng tài nước ngoài, các giấy tờ, tài liệu kèm theo với các quy định của Bộ luật này, các quy định khác của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có liên quan để ra quyết định.
5. Sau khi xem xét đơn yêu cầu, các giấy tờ, tài liệu kèm theo, nghe ý kiến của người được triệu tập, của Kiểm sát viên, Hội đồng thảo luận và quyết định theo đa số.
Hội đồng có quyền ra quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài hoặc quyết định không công nhận quyết định của Trọng tài nước ngoài.
Điều 370. Những trường hợp không công nhận
1. Quyết định của Trọng tài nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trong các trường hợp sau đây:
a) Các bên ký kết thoả thuận trọng tài không có năng lực để ký kết thoả thuận đó theo pháp luật được áp dụng cho mỗi bên;
b) Thoả thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo pháp luật của nước mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo pháp luật của nước nơi quyết định đã được tuyên, nếu các bên không chọn pháp luật áp dụng cho thoả thuận đó;
c) Cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành không được thông báo kịp thời và hợp thức về việc chỉ định Trọng tài viên, về thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại Trọng tài nước ngoài hoặc vì nguyên nhân chính đáng khác mà không thể thực hiện được quyền tố tụng của mình;
d) Quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên về một vụ tranh chấp không được các bên yêu cầu giải quyết hoặc vượt quá yêu cầu của các bên ký kết thoả thuận trọng tài. Trong trường hợp có thể tách được phần quyết định về vấn đề đã được yêu cầu và phần quyết định về vấn đề không được yêu cầu giải quyết tại Trọng tài nước ngoài thì phần quyết định về vấn đề được yêu cầu giải quyết có thể được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
đ) Thành phần của Trọng tài nước ngoài, thủ tục giải quyết tranh chấp của Trọng tài nước ngoài không phù hợp với thoả thuận trọng tài hoặc với pháp luật của nước nơi quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên, nếu thoả thuận trọng tài không quy định về các vấn đề đó;
e) Quyết định của Trọng tài nước ngoài chưa có hiệu lực bắt buộc đối với các bên;
g) Quyết định của Trọng tài nước ngoài bị cơ quan có thẩm quyền của nước nơi quyết định đã được tuyên hoặc của nước có pháp luật đã được áp dụng huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành.
2. Quyết định của Trọng tài nước ngoài cũng không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, nếu Toà án Việt Nam xét thấy:
a) Theo pháp luật Việt Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể thức trọng tài;
b) Việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Điều 371. Gửi quyết định của Toà án
Ngay sau khi ra quyết định quy định tại Điều 368 và Điều 369 của Bộ luật này, Toà án gửi cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp quyết định đó; nếu đương sự ở nước ngoài thì quyết định được gửi thông qua Bộ Tư pháp.
Điều 372. Kháng cáo, kháng nghị
1. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày Toà án ra quyết định quy định tại Điều 368 và Điều 369 của Bộ luật này, đương sự, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo quyết định đó; trường hợp đương sự không có mặt tại phiên họp xét đơn yêu cầu thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được quyết định đó. Đơn kháng cáo phải nêu rõ lý do và yêu cầu kháng cáo.
Trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho đương sự, người đại diện hợp pháp của họ không thể kháng cáo trong thời hạn nêu trên thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn kháng cáo.
2. Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị quyết định của Toà án quy định tại Điều 368 và Điều 369 của Bộ luật này.
Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là ba mươi ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết định.
Điều 373. Xét kháng cáo, kháng nghị
1. Toà án nhân dân tối cao xét quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ; trường hợp cần phải yêu cầu giải thích theo quy định tại khoản 2 Điều 367 của Bộ luật này thì thời hạn này được kéo dài, nhưng không quá hai tháng.
2. Thành phần Hội đồng xét quyết định bị kháng cáo, kháng nghị gồm ba Thẩm phán, trong đó có một Thẩm phán làm chủ toạ theo sự phân công của Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao. Phiên họp xét lại quyết định bị kháng cáo, kháng nghị được tiến hành như phiên họp xét đơn yêu cầu quy định tại Điều 369 của Bộ luật này.
3. Hội đồng có quyền giữ nguyên, sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc xét kháng cáo, kháng nghị trong trường hợp đương sự rút kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng nghị hoặc có căn cứ quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 368 của Bộ luật này.
Quyết định của Toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành.
Điều 374. Huỷ quyết định công nhận và cho thi hành
1. Trong trường hợp nhận được thông báo bằng văn bản của Bộ Tư pháp về việc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đang xem xét việc huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài đã có quyết định thi hành tại Việt Nam thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài và gửi quyết định đó cho Toà án đã ra quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thể áp dụng biện pháp bảo đảm cần thiết cho việc tiếp tục thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài, nếu có yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức được thi hành.
2. Ngay sau khi nhận được thông báo bằng văn bản của Bộ Tư pháp về việc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài, Toà án Việt Nam đã ra quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài ra quyết định huỷ bỏ quyết định đó và gửi quyết định này cho cơ quan thi hành án.
Ngay sau khi nhận được quyết định của Toà án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ việc thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài.

Phần thứ bảy
Thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án

Chương XXX
Quy định chung về thi hành bản án, quyết định của toà án

Điều 375. Những bản án, quyết định của Toà án được thi hành
1. Những bản án, quyết định dân sự của Toà án được thi hành là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
b) Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án;
d) Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã có quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
2. Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất tinh thần của công dân;
b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Điều 376. Căn cứ để đưa ra thi hành bản án, quyết định của Toà án
Bản án, quyết định của Toà án được đưa ra thi hành khi có các căn cứ sau đây:
1. Bản án, quyết định được thi hành quy định tại Điều 375 của Bộ luật này;
2. Quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
Điều 377. Quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Toà án
1. Trường hợp các bên đương sự không tự nguyện thi hành thì người được thi hành án, người phải thi hành án căn cứ vào bản án, quyết định của Toà án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
2. Người yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Toà án phải có đơn yêu cầu thi hành án hoặc trực tiếp đến cơ quan thi hành án nêu rõ nội dung yêu cầu và các thông tin liên quan đến việc thi hành án kèm theo bản án hoặc quyết định có yêu cầu được thi hành.
Điều 378. Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện đầy đủ yêu cầu của Chấp hành viên trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án.
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án ở địa phương mình theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Tư lệnh quân khu và tương đương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc thi hành án trong quân khu và tương đương.
3. Cơ quan công an có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, kịp thời ngăn chặn những hành vi cản trở, chống đối việc thi hành bản án, quyết định của Toà án. Trong trường hợp cần phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án thì cơ quan công an và các cơ quan hữu quan có nhiệm vụ phối hợp thực hiện theo yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan thi hành án hoặc Chấp hành viên.
Điều 379. Kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Toà án
Viện kiểm sát nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, cơ quan thi hành án, Chấp hành viên và cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Toà án nhằm bảo đảm việc thi hành bản án, quyết định của Toà án kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật.

Chương XXXI
Thủ tục thi hành bản án, quyết định của Toà án

Điều 380. Cấp bản án, quyết định của Toà án
Khi bản án, quyết định của Toà án thuộc trường hợp được thi hành theo quy định tại Điều 375 của Bộ luật này thì Toà án đã tuyên bản án, quyết định đó phải cấp cho người được thi hành án và người phải thi hành án bản án hoặc quyết định đó có ghi “để thi hành”.
Toà án phải giải thích cho người được thi hành, người phải thi hành bản án, quyết định về quyền yêu cầu, thời hạn yêu cầu thi hành án và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Điều 381. Thời hạn chuyển giao bản án, quyết định của Toà án
1. Đối với những bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 375 của Bộ luật này thì Toà án đã tuyên bản án, quyết định đó phải chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án cùng cấp với Toà án đã xét xử sơ thẩm trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định đó.
Đối với các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Toà án đã ra quyết định phải chuyển giao ngay quyết định cho cơ quan thi hành án cùng cấp.
2. Đối với bản án, quyết định không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này thì Toà án đã tuyên bản án, quyết định đó phải chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án cùng cấp với Toà án đã xét xử sơ thẩm trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Khi chuyển giao bản án, quyết định, Toà án phải gửi kèm theo biên bản kê biên, tạm giữ tang vật, tài sản, các tài liệu khác có liên quan, nếu có.
Điều 382. Giải thích bản án, quyết định của Toà án
1. Người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Toà án và cơ quan thi hành án có quyền yêu cầu bằng văn bản Toà án đã ra bản án, quyết định giải thích những điểm chưa rõ trong bản án, quyết định để thi hành.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu, Toà án phải có văn bản giải thích và gửi cho người có yêu cầu, Viện kiểm sát cùng cấp, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Toà án.
2. Thẩm phán ra quyết định hoặc Thẩm phán là chủ toạ phiên toà có trách nhiệm giải thích bản án, quyết định của Toà án. Trong trường hợp họ không còn là Thẩm phán của Toà án thì Chánh án Toà án đó có trách nhiệm giải thích bản án, quyết định của Toà án.
3. Việc giải thích bản án, quyết định của Toà án phải căn cứ vào biên bản phiên toà và biên bản nghị án.
Điều 383. Thời hiệu yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Toà án
1. Trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành bản án, quyết định đó.
Trong trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định của Toà án thì thời hạn ba năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn; đối với bản án, quyết định của Toà án thi hành theo định kỳ thì thời hạn ba năm được áp dụng cho từng định kỳ, tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
2. Trong trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng đó không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án; đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định tại Điều 286 và Điều 307 của Bộ luật này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn, tạm đình chỉ thi hành án.

Phần thứ tám
Xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự; khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự

Chương XXXII
Xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự

Điều 384. Biện pháp xử lý đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn không có mặt tại Toà án hoặc không có mặt tại phiên toà không có lý do chính đáng thì tuỳ từng trường hợp có thể bị Toà án phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền.
Điều 385. Biện pháp xử lý người có hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của người tiến hành tố tụng
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà có thể bị Toà án quyết định phạt cảnh cáo, phạt tiền, tạm giữ hành chính hoặc khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật:
a) Làm giả, huỷ hoại những chứng cứ quan trọng gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án của Toà án;
b) Khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật;
c) Từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định hoặc từ chối cung cấp tài liệu;
d) Lừa dối, đe doạ, mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người làm chứng ra làm chứng hoặc buộc người khác ra làm chứng gian dối;
đ) Lừa dối, đe doạ, mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người giám định thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người giám định kết luận sai với sự thật khách quan;
e) Lừa dối, đe doạ, mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người phiên dịch thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người phiên dịch dịch không trung thực, không khách quan, không đúng nghĩa khi dịch;
g) Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tiến hành tố tụng; đe doạ, sử dụng vũ lực hoặc có hành vi khác cản trở người tiến hành tố tụng thực hiện các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ do Bộ luật này quy định;
h) Các hành vi vi phạm khác mà pháp luật có quy định.
2. Cơ quan công an có nhiệm vụ thi hành quyết định của Toà án tạm giữ hành chính người có hành vi vi phạm.
Điều 386. Biện pháp xử lý người làm chứng cố ý không có mặt theo giấy triệu tập của Toà án
1. Người làm chứng đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng cố ý không đến Toà án hoặc không có mặt tại phiên toà mà không có lý do chính đáng và nếu sự vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc thu thập, xác minh chứng cứ hoặc xét xử vụ án thì Toà án có quyền ra quyết định dẫn giải, cảnh cáo, phạt tiền.
2. Quyết định dẫn giải người làm chứng phải ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định; họ, tên, chức vụ người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người làm chứng; thời gian, địa điểm người làm chứng phải có mặt.
3. Cơ quan công an có nhiệm vụ thi hành quyết định của Toà án dẫn giải người làm chứng. Người thi hành quyết định dẫn giải người làm chứng phải đọc, giải thích quyết định dẫn giải cho người bị dẫn giải biết và lập biên bản về việc dẫn giải.
Điều 387. Biện pháp xử lý người vi phạm nội quy phiên toà
1. Người có hành vi vi phạm nội quy phiên toà thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà có thể bị chủ toạ phiên toà quyết định phạt cảnh cáo, phạt tiền, buộc rời khỏi phòng xử án hoặc tạm giữ hành chính.
2. Cơ quan công an có nhiệm vụ bảo vệ phiên toà thi hành quyết định của chủ toạ phiên toà về việc buộc rời khỏi phòng xử án hoặc tạm giữ hành chính người gây rối trật tự tại phiên toà.
3. Trong trường hợp người vi phạm nội quy phiên toà đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì Toà án có quyền khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật về hình sự.
Điều 388. Trách nhiệm của Viện kiểm sát trong trường hợp Toà án khởi tố vụ án hình sự
1. Trong trường hợp Toà án khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 385 và khoản 3 Điều 387 của Bộ luật này thì trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố, Toà án phải chuyển cho Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định khởi tố vụ án và tài liệu, chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội.
2. Viện kiểm sát phải xem xét việc khởi tố, truy tố bị can trong thời hạn do Bộ luật tố tụng hình sự quy định; nếu Viện kiểm sát không khởi tố, truy tố bị can thì Viện kiểm sát phải thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do của việc không khởi tố, truy tố bị can cho Toà án đã ra quyết định khởi tố vụ án biết.
Điều 389. Biện pháp xử lý cá nhân, cơ quan, tổ chức không thi hành quyết định của Toà án về việc cung cấp chứng cứ cho Toà án
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức không thi hành quyết định của Toà án về việc cung cấp chứng cứ mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang quản lý, lưu giữ thì có thể bị Toà án quyết định phạt cảnh cáo, phạt tiền hoặc cưỡng chế thi hành.
2. Cá nhân, người đứng đầu cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 1 Điều này tuỳ theo mức độ vi phạm mà có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Điều 390. Thủ tục, thẩm quyền xử phạt, mức tiền phạt
Thủ tục, thẩm quyền xử phạt, mức tiền phạt đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.

Chương XXXIII
Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự

Điều 391. Quyết định, hành vi trong tố tụng dân sự có thể bị khiếu nại
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định, hành vi trong tố tụng dân sự của cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà án và các quyết định tố tụng khác do người tiến hành tố tụng dân sự ban hành, nếu có kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại, kiến nghị thì không giải quyết theo quy định của Chương này mà được giải quyết theo quy định của các chương tương ứng của Bộ luật này.
Điều 392. Quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại
1. Người khiếu nại có các quyền sau đây:
a) Tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khiếu nại;
b) Khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án;
c) Rút khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu nại;
d) Được nhận văn bản trả lời về việc thụ lý để giải quyết khiếu nại; nhận quyết định giải quyết khiếu nại;
đ) Được khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
2. Người khiếu nại có các nghĩa vụ sau đây:
a) Khiếu nại đến đúng người có thẩm quyền giải quyết;
b) Trình bày trung thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp thông tin, tài liệu đó;
c) Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
Điều 393. Quyền, nghĩa vụ của người bị khiếu nại
1. Người bị khiếu nại có các quyền sau đây:
a) Đưa ra bằng chứng về tính hợp pháp của quyết định, hành vi trong tố tụng bị khiếu nại;
b) Được nhận quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi trong tố tụng của mình.
2. Người bị khiếu nại có các nghĩa vụ sau đây:
a) Giải trình về quyết định, hành vi trong tố tụng dân sự bị khiếu nại; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu;
b) Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật;
c) Bồi thường thiệt hại, hoàn trả hoặc khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi trong tố tụng dân sự trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của pháp luật.
Điều 394. Thời hiệu khiếu nại
Thời hiệu khiếu nại là mười lăm ngày, kể từ ngày người khiếu nại nhận được hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng mà người đó cho rằng có vi phạm pháp luật.
Trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hạn quy định tại Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.
Điều 395. Thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với Kiểm sát viên, Phó Viện trưởng và Viện trưởng Viện kiểm sát
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Kiểm sát viên, Phó Viện trưởng do Viện trưởng Viện kiểm sát giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Viện trưởng Viện kiểm sát do Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 396. Thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với Thư ký Toà án, Hội thẩm nhân dân, Thẩm phán, Phó Chánh án và Chánh án Toà án
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Thư ký Toà án, Hội thẩm nhân dân, Thẩm phán, Phó Chánh án do Chánh án Toà án giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Toà án cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Toà án cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Toà án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án Toà án do Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Toà án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Toà án phải được gửi cho người khiếu nại và Viện kiểm sát cùng cấp.
Điều 397. Thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với người giám định
Khiếu nại về hành vi trong tố tụng dân sự của người giám định do người đứng đầu tổ chức giám định trực tiếp quản lý người giám định giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại với người đứng đầu cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của tổ chức giám định. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, người đứng đầu cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Quyết định của người đứng đầu cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp là quyết định cuối cùng.
Điều 398. Người có quyền tố cáo
Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Điều 399. Quyền, nghĩa vụ của người tố cáo
1. Người tố cáo có các quyền sau đây:
a) Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền;
b) Yêu cầu giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của mình;
c) Yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo;
d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe doạ, trù dập, trả thù.
2. Người tố cáo có nghĩa vụ sau đây:
a) Trình bày trung thực về nội dung tố cáo;
b) Nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình;
c) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật.
Điều 400. Quyền, nghĩa vụ của người bị tố cáo
1. Người bị tố cáo các có quyền sau đây:
a) Được thông báo về nội dung tố cáo;
b) Đưa ra bằng chứng để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật;
c) Được khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; được phục hồi danh dự, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo không đúng gây ra;
d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người tố cáo sai sự thật.
2. Người bị tố cáo có các nghĩa vụ sau đây:
a) Giải trình về hành vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu;
b) Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền;
c) Bồi thường thiệt hại, hoàn trả hoặc khắc phục hậu quả do hành vi tố tụng dân sự trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của pháp luật.
Điều 401. Thẩm quyền và thời hạn giải quyết tố cáo
1. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc cơ quan có thẩm quyền nào thì người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.
Trong trường hợp người bị tố cáo là Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát thì Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có trách nhiệm giải quyết.
Thời hạn giải quyết tố cáo là không quá sáu mươi ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể dài hơn, nhưng không quá chín mươi ngày.
2. Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm được giải quyết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Điều 402. Thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo
Thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo quy định của Chương này và các quy định khác của pháp luật về khiếu nại, tố cáo không trái với quy định của Chương này.
Điều 403. Trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật; xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm cho quyết định giải quyết được thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
2. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo mà không giải quyết, thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết, giải quyết trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Điều 404. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu, kiến nghị đối với Toà án cùng cấp và cấp dưới, cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm để bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng pháp luật.

Phần thứ chín
Thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài và tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự

Chương XXXIV
Quy định chung về thủ tục giải quyết các vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngoài

Điều 405. Nguyên tắc áp dụng
1. Toà án áp dụng các quy định tại Chương XXXIV và Chương XXXV của Bộ luật này để giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Trường hợp trong các chương này không có quy định thì được áp dụng các quy định khác có liên quan của Bộ luật này để giải quyết.
2. Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là vụ việc dân sự có ít nhất một trong các đương sự là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc các quan hệ dân sự giữa các đương sự là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Điều 406. Quyền, nghĩa vụ tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài
1. Công dân nước ngoài, người không quốc tịch, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế (sau đây gọi chung là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài) có quyền khởi kiện đến Toà án Việt Nam để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm hoặc có tranh chấp.
2. Khi tham gia tố tụng dân sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài có quyền, nghĩa vụ tố tụng như công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam.
3. Nhà nước Việt Nam có thể áp dụng nguyên tắc có đi có lại để hạn chế quyền tố tụng dân sự tương ứng của công dân nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài mà Toà án của nước đó đã hạn chế quyền tố tụng đối với công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam.
Điều 407. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của công dân nước ngoài, người không quốc tịch
1. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của công dân nước ngoài, người không quốc tịch được xác định như sau:
a) Theo pháp luật của nước mà công dân đó có quốc tịch; trong trường hợp công dân có quốc tịch Việt Nam và quốc tịch nước ngoài thì theo pháp luật Việt Nam; trong trường hợp công dân có nhiều quốc tịch của nhiều nước ngoài khác nhau thì theo pháp luật của nước nơi công dân đó sinh sống, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác;
b) Theo pháp luật Việt Nam, nếu công dân nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam;
c) Theo pháp luật của nước nơi người không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài;
d) Theo pháp luật Việt Nam, nếu hành vi tố tụng dân sự được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam.
2. Công dân nước ngoài, người không quốc tịch có thể được công nhận có năng lực hành vi tố tụng dân sự trên lãnh thổ Việt Nam, nếu theo quy định của pháp luật nước ngoài thì họ không có năng lực hành vi tố tụng dân sự, nhưng theo quy định của pháp luật Việt Nam thì họ có năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Điều 408. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế trong tố tụng dân sự
1. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cơ quan, tổ chức nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước nơi cơ quan, tổ chức đó được thành lập, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác.
2. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của tổ chức quốc tế được xác định trên cơ sở điều ước quốc tế là căn cứ để thành lập tổ chức đó, quy chế hoạt động của tổ chức quốc tế hoặc điều ước quốc tế đã được ký kết với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Điều 409. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài
Đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài tham gia tố tụng tại Toà án Việt Nam có quyền nhờ luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Chương XXXV
Thẩm quyền của Toà án Việt Nam giải quyết các
vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài

Điều 410. Quy định chung về thẩm quyền của Toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài
1. Thẩm quyền của Toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo quy định tại Chương III của Bộ luật này, trừ trường hợp Chương này có quy định khác.
2. Toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong các trường hợp sau đây:
a) Bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc bị đơn có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam;
b) Bị đơn là công dân nước ngoài, người không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam hoặc có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam;
c) Nguyên đơn là công dân nước ngoài, người không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam đối với vụ việc dân sự về yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng, xác định cha mẹ;
d) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam, nhưng có ít nhất một trong các đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài;
đ) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài, nhưng các đương sự đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị đơn cư trú tại Việt Nam;
e) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện toàn bộ hoặc một phần hợp đồng xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam;
g) Vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam.
Điều 411. Thẩm quyền riêng biệt của Toà án Việt Nam
1. Những vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Toà án Việt Nam:
a) Vụ án dân sự có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam;
b) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận chuyển mà người vận chuyển có trụ sở chính hoặc chi nhánh tại Việt Nam;
c) Vụ án ly hôn giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch, nếu cả hai vợ chồng cư trú, làm ăn, sinh sống ở Việt Nam.
2. Những việc dân sự có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Toà án Việt Nam:
a) Xác định một sự kiện pháp lý, nếu sự kiện đó xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam;
b) Tuyên bố công dân nước ngoài, người không quốc tịch bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự nếu họ cư trú, làm ăn, sinh sống ở Việt Nam và việc tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam;
c) Tuyên bố công dân nước ngoài, người không quốc tịch mất tích, đã chết nếu họ có mặt ở Việt Nam tại thời điểm có sự kiện xảy ra mà sự kiện đó là căn cứ để tuyên bố một người mất tích, đã chết và việc tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam;
d) yêu cầu Toà án Việt Nam tuyên bố công dân Việt Nam mất tích, đã chết nếu việc tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam;
đ) Công nhận tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam là vô chủ hoặc công nhận quyền sở hữu của người đang quản lý đối với bất động sản vô chủ trên lãnh thổ Việt Nam.
Điều 412. Không thay đổi thẩm quyền giải quyết của Toà án
Vụ việc dân sự đã được một Toà án Việt Nam thụ lý giải quyết theo quy định về thẩm quyền do Bộ luật này quy định thì phải được Toà án đó tiếp tục giải quyết mặc dù trong quá trình giải quyết có sự thay đổi quốc tịch, nơi cư trú, địa chỉ của các đương sự hoặc có tình tiết mới làm cho vụ việc dân sự đó thuộc thẩm quyền của Toà án khác của Việt Nam hoặc của Toà án nước ngoài.
Điều 413. Trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp đã có Toà án nước ngoài giải quyết
1. Toà án Việt Nam trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp đã có bản án, quyết định của Toà án nước ngoài giải quyết vụ việc dân sự đó và nước có Toà án ra bản án, quyết định dân sự đó và Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế quy định việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự.
2. Toà án Việt Nam trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu có Toà án nước ngoài đã thụ lý vụ việc dân sự đó và bản án, quyết định của Toà án nước ngoài về vụ việc dân sự đó được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.

Chương XXXVI
Tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự

Điều 414. Nguyên tắc tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự
1. Việc tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự giữa Toà án Việt Nam và Toà án nước ngoài được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, phù hợp với pháp luật Việt Nam.
2. Trong trường hợp Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước ngoài chưa ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế có quy định về tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự thì việc tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự có thể được Toà án Việt Nam chấp nhận trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không được trái pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế.
Điều 415. Thực hiện uỷ thác tư pháp
1. Toà án Việt Nam uỷ thác tư pháp cho Toà án nước ngoài hoặc thực hiện uỷ thác tư pháp của Toà án nước ngoài về việc tiến hành một số hoạt động tố tụng dân sự theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
2. Toà án Việt Nam không chấp nhận thực hiện việc uỷ thác tư pháp của Toà án nước ngoài trong các trường hợp sau đây:
a) Việc thực hiện uỷ thác tư pháp xâm phạm đến chủ quyền của Việt Nam hoặc đe doạ đến an ninh của Việt Nam;
b) Việc thực hiện uỷ thác tư pháp không thuộc thẩm quyền của Toà án Việt Nam.
Điều 416. Thủ tục thực hiện việc uỷ thác tư pháp
1. Việc Toà án Việt Nam uỷ thác tư pháp cho Toà án nước ngoài hoặc Toà án nước ngoài uỷ thác tư pháp cho Toà án Việt Nam phải được lập thành văn bản và gửi đến cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập hoặc theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam nhận được văn bản uỷ thác tư pháp phải chuyển ngay cho Toà án Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài nhận văn bản uỷ thác của Toà án Việt Nam.
Điều 417. Văn bản uỷ thác tư pháp
1. Văn bản uỷ thác tư pháp phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm lập văn bản uỷ thác tư pháp;
b) Tên, địa chỉ của Toà án uỷ thác tư pháp;
c) Tên, địa chỉ của Toà án thực hiện uỷ thác tư pháp;
d) Họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức có liên quan đến uỷ thác tư pháp;
đ) Nội dung công việc uỷ thác;
e) Yêu cầu của Toà án uỷ thác.
2. Gửi kèm theo văn bản uỷ thác là giấy tờ, tài liệu cần thiết cho việc thực hiện uỷ thác, nếu có.
Điều 418. Công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận
1. Giấy tờ, tài liệu do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc ở ngoài lãnh thổ Việt Nam được Toà án Việt Nam công nhận nếu giấy tờ, tài liệu đó đã được hợp pháp hoá lãnh sự, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác.
2. Giấy tờ, tài liệu lập bằng tiếng nước ngoài phải được gửi cho Toà án Việt Nam kèm theo bản dịch ra tiếng Việt đã được công chứng, chứng thực hợp pháp.
 
Bộ luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004.

CHỦ TỊCH QUỐC HỘI

(Đã ký)

Nguyễn Văn An

The post Bộ luật tố tụng dân sự số: 24/2004/QH11 appeared first on MP Law Firm.

]]>
Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10 tháng 8 năm 2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình https://mplaw.vn/en/nghi-quyet-so-022004nq-hdtp-ngay-10-thang-8-nam-2004-cua-hoi-dong-tham-phan-toa-an-nhan-dan-toi-cao-huong-dan-ap-dung-phap-luat-trong-viec-giai-quyet-cac-vu-an-dan-su-hon-nhan-va-gia-dinh/ Fri, 03 Nov 2017 14:54:25 +0000 http://law.imm.fund/?p=1096 HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Số: 02/2004/NQ-HĐTP CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hà Nội, ngày 10 tháng 08 năm 2004 NGHỊ QUYẾT CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc […]

The post Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10 tháng 8 năm 2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình appeared first on MP Law Firm.

]]>
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Số: 02/2004/NQ-HĐTP
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 10 tháng 08 năm 2004

NGHỊ QUYẾT CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết

các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Căn cứ vào Luật Tổ chức Toà án nhân dân;
Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình;
Sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,

QUYẾT ĐỊNH:

I. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu
1. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu đối với các giao dịch dân sự
1.1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày 1/7/1996 (ngày Bộ luật Dân sự có hiệu lực) mà các văn bản pháp luật trước đây có quy định về thời hiệu (thời hiệu hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự và thời hiệu khởi kiện) thì phải áp dụng các quy định về thời hiệu của các văn bản pháp luật đó để xác định thời hiệu còn hay hết, không phân biệt giao dịch dân sự đó được thực hiện xong trước ngày 1/7/1996 hay từ ngày 1/7/1996. Trong trường hợp từ ngày 1/7/1996 các bên tham gia giao dịch dân sự có thoả thuận bổ sung thì cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp các bên đang tiếp tục thực hiện hợp đồng dân sự hoặc khi hết hạn thực hiện hợp đồng, có thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng đó thì việc xác định thời hiệu căn cứ vào thoả thuận của các bên và được thực hiện theo quy định của các văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm giao kết hợp đồng.
b) Trường hợp các bên đang tiếp tục thực hiện hợp đồng dân sự, có thoả thuận bổ sung mà thoả thuận đó là một phần không tách rời của hợp đồng dân sự đó thì việc xác định thời hiệu đối với hợp đồng nói chung (bao gồm cả thoả thuận mới) được thực hiện theo quy định của các văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm giao kết hợp đồng.
c) Trường hợp các bên đang tiếp tục thực hiện hợp đồng dân sự, có thoả thuận bổ sung mà thoả thuận đó như một hợp đồng mới thay thế hợp đồng cũ hoặc hoàn toàn độc lập với hợp đồng cũ, thì việc xác định thời hiệu đối với thoả thuận mới được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự.
1.2. Đối với giao dịch dân sự được xác lập từ ngày 1/7/1996 đến trước ngày 1/1/2005 mà Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác không có quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu, thì kể từ ngày 1/1/2005 (ngày Bộ luật Tố tụng dân sự được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 có hiệu lực) việc xác định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được thực hiện theo quy định tại Điều 159 của Bộ luật Tố tụng dân sự; cụ thể như sau:
a) Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày 1/1/2005, nếu tranh chấp phát sinh trước ngày 1/1/2005 hoặc kể từ ngày phát sinh tranh chấp, nếu tranh chấp phát sinh từ ngày 1/1/2005.
b) Thời hiệu yêu cầu để Toà án giải quyết việc dân sự là 1 năm, kể từ ngày 1/1/2005, nếu quyền yêu cầu phát sinh trước ngày 1/1/2005 hoặc kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, nếu yêu cầu phát sinh từ ngày 1/1/2005.
1.3. Đối với giao dịch dân sự được xác lập từ ngày 1/1/2005 mà Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác không có quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu, thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được thực hiện theo quy định tại Điều 159 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
1.4. Về thời hạn yêu cầu Toà tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
a) Đối với giao dịch dân sự được giao kết trước ngày 1/7/1996 thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 15 của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 bao gồm: nội dung hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội; một hoặc các bên không có quyền giao kết hợp đồng (chủ thể giao kết hợp đồng không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 3 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991), thì thời gian yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế. Trong mọi thời điểm một bên hoặc các bên đều có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Trong trường hợp các bên vẫn thực hiện hợp đồng và phát sinh tranh chấp, cho nên một bên hoặc các bên khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết, nếu trong quá trình giải quyết Toà án xác định giao dịch dân sự đó là vô hiệu thuộc trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 15 của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự, thì Toà án có quyền tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu và xử lý hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm giao dịch được xác lập.
b) Đối với giao dịch dân sự được giao kết trước ngày 1/7/1996 thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 15 của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 bao gồm: hợp đồng dân sự vô hiệu do người chưa thành niên xác lập, thực hiện (do có vi phạm quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 3 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991); do một bên bị nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng; bị đe doạ hoặc bị lừa dối), thì thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 56 của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự là ba năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập. Hết thời hạn ba năm mà không có yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, thì giao dịch dân sự đó được coi là có hiệu lực.
Trong trường hợp các bên vẫn thực hiện hợp đồng và phát sinh tranh chấp, cho nên một bên hoặc các bên khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết, nếu đã hết thời hạn ba năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập, thì họ không có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu vì lý do vi phạm quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 15 của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự. Trong trường hợp này Toà án tiến hành giải quyết tranh chấp giao dịch dân sự theo thủ tục chung.
c) Đối với giao dịch dân sự được giao kết từ ngày 1/7/1996 mà có yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, thì áp dụng các quy định tại Điều 145 của Bộ luật Dân sự về thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
1.5. Đối với giao dịch dân sự về nhà ở thuộc đối tượng điều chỉnh của Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 và theo hướng dẫn tại Thông tư Liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/1/1999 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao “hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội” thì thời gian từ ngày 1/7/1996 đến ngày 1/1/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện.
2. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện liên quan đến thừa kế
2.1. Quyền thừa kế
“Quyền thừa kế” quy định tại khoản 1 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990, Điều 648 của Bộ luật Dân sự bao gồm quyền yêu cầu chia di sản thừa kế, quyền yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc quyền yêu cầu bác bỏ quyền thừa kế của người khác.
2.2. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
a) Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 1/7/1996, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế”.
Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 1/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 1/7/1996 đến ngày 1/1/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện.
b) Đối với trường hợp thừa kế mở từ ngày 1/7/1996 thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 648 của Bộ luật Dân sự.
2.3. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản.
a) Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1996 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế”. Nếu nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản được phát sinh trước ngày 01/7/1991 có liên quan đến nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện.
b) Đối với trường hợp thừa kế mở từ ngày 01/7/1996 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự. Việc xác định thời hiệu khởi kiện phải căn cứ vào quy định tại các Điều 639, 640 và 418 của Bộ luật Dân sự và hướng dẫn tại các tiểu mục 1.2, 1.3, 1.4 mục 1 Phần I của Nghị quyết này.
2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:
a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.
a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.
a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền… thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.
II. Về thừa kế, tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất
1. Xác định quyền sử dụng đất là di sản
1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.
1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.
1.3. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:
a) Trong trường hợp đương sự có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.
b) Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.
c) Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.
1.4. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ quy định tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 mục 1 này và cũng không có di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 này, nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân theo quy định của pháp luật về đất đai.
2. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
2.1. Đối với tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập trước ngày 01/7/1980 (ngày Hội đồng Chính phủ nay là Chính phủ ban hành Quyết định số 201/CP về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước) mà sau ngày 15/10/1993 mới phát sinh tranh chấp, thì việc giải quyết tranh chấp này như sau:
a) Trường hợp nội dung và hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng.
a.1. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã nhận đất thì Toà án công nhận hợp đồng, buộc các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. Nếu bên nhận đất chưa trả đủ tiền cho bên có đất thì buộc họ phải trả cho bên chuyển nhượng số tiền còn thiếu theo giá đất thực tế trên thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
a.2. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền nhưng chưa nhận đất và bên chuyển nhượng vẫn quản lý, sử dụng, chưa xây dựng công trình kiến trúc trên đất đó, thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Trong trường hợp bên chuyển nhượng đã làm nhà ở hoặc không có điều kiện để giao đất cho bên nhận chuyển nhượng, thì tuỳ trường hợp cụ thể Toà án có thể huỷ hợp đồng, buộc bên chuyển nhượng phải thanh toán cho bên nhận chuyển nhượng khoản tiền đã nhận theo giá đất thực tế trên thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
b) Trường hợp nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật nhưng hình thức của hợp đồng không phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng.
b.1. Nếu các bên chưa thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và huỷ hợp đồng.
b.2. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền chuyển nhượng đất; bên chuyển nhượng đã giao toàn bộ diện tích đất, thì Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất đó. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng mới trả một phần tiền chuyển nhượng đất, bên chuyển nhượng mới giao một phần diện tích đất, thì có thể công nhận phần hợp đồng đó căn cứ vào diện tích đất đã nhận. Nếu công nhận phần hợp đồng trong trường hợp bên chuyển nhượng giao diện tích đất có giá trị lớn hơn số tiền mà họ đã nhận, thì Toà án buộc bên nhận chuyển nhượng thanh toán cho bên chuyển nhượng phần chênh lệch giữa số tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã trả so với diện tích đất thực tế mà họ đã nhận tại thời điểm giao kết hợp đồng theo giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Đồng thời buộc các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất đối với diện tích đất mà bên nhận chuyển nhượng đã nhận. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng đã giao số tiền lớn hơn giá trị diện tích đất đã nhận mà Toà án chỉ công nhận phần hợp đồng tương ứng với diện tích đất mà họ đã nhận thì bên chuyển nhượng phải thanh toán khoản tiền đã nhận vượt quá giá trị diện tích đất đã giao tính theo giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
c) Đối với trường hợp được hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 này mà bên chuyển nhượng đã nhận tiền của bên nhận chuyển nhượng nhưng chưa giao đất cho họ mà đất đó đã bị Nhà nước thu hồi để sử dụng vào mục đích công cộng và có đền bù cho bên chuyển nhượng đất thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và huỷ hợp đồng. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.3 mục 2 này.
d) Nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có điều kiện mà điều kiện đó đã xảy ra hoặc đã được thực hiện, thì hợp đồng đó được giải quyết theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 này.
đ. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà toàn bộ hoặc một phần nội dung của hợp đồng vi phạm pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và việc giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo quy định tại Điều 137, Điều 146 của Bộ luật Dân sự và hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.3 mục 2 này.
2.2. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ ngày 01/7/1980 (ngày Chính phủ ban hành Quyết định số 201/CP) đến trước ngày 15/10/1993 (ngày Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực)
Pháp luật thời kỳ này nghiêm cấm việc mua, bán phát canh thu tô chuyển nhượng đất đai dưới mọi hình thức; do đó, khi có tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Toà án giải quyết như sau:
a) Về nguyên tắc chung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai được xác lập trong thời điểm từ ngày 01/7/1980 đến trước ngày 15/10/1993 là hợp đồng trái pháp luật; do đó, nếu có tranh chấp mà hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa được thực hiện thì Toà án huỷ hợp đồng vì hợp đồng bị vô hiệu. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.3 mục 2 này.
b) Nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được thực hiện thì Toà án công nhận hợp đồng trong các trường hợp sau đây:
b.1. Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;
b.2. Trường hợp đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hoàn tất thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền, Uỷ ban nhân dân đã cho phép việc chuyển nhượng;
b.3. Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh không vi phạm qui định về quy hoạch và bên chuyển nhượng cũng không phản đối khi bên nhận chuyển quyền sử dụng đất xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh trên đất đó.
2.3. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau này 15/10/1993
a) Điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2003, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây:
a.1. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có năng lực hành vi dân sự;
a.2. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện;
a.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không trái pháp luật, đạo đức xã hội;
a.4. Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003;
a.5. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;
a.6. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
b) Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.3 mục 2 này.
b.1. Đối với hợp đồng được giao kết trước ngày 01/7/2004 vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nhưng đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.
b.2. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2, 3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.
b.3. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố… và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch.
c) Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.
c.1. Khi xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, thì tuỳ từng trường hợp Toà án áp dụng quy định của điều luật tương ứng từ Điều 136 đến Điều 138, từ Điều 140 đến Điều 145 và Điều 146 của Bộ luật Dân sự để xác định thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.
c.2. Xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Việc xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình”
c.3. Xác định thiệt hại.
– Khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì Toà án cần xác định thiệt hại gồm:
Khoản tiền mà bên chuyển nhượng phải bỏ ra để khôi phục lại tình trạng ban đầu của diện tích đất do bên nhận chuyển nhượng đã làm huỷ hoại đất; khoản tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã đầu tư để cải tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất, giá trị công trình, tài sản, cây lâu năm… trên đất. Trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có thoả thuận khác về việc áp dụng biện pháp phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 379 Bộ luật Dân sự để bảo đảm thực hiện hợp đồng thì thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có.
– Để xác định đúng các thiệt hại nói trên, Toà án phải tiến hành định giá giá trị quyền sử dụng đất và xác định thiệt hại về đất như sau:
Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá trị quyền sử dụng đất và giá trị thiệt hại, thì Toà án yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc ra quyết định thành lập hội đồng định giá. Giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương nơi đất đang tranh chấp đối với từng loại đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm.
Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quy định giá trị quyền sử dụng đất cụ thể phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại địa phương hoặc các trung tâm giao dịch bất động sản hoạt động hợp pháp có niêm yết giá giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương vào thời điểm xét xử sơ thẩm, thì Toà án có thể căn cứ vào giá do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá niêm yết của các trung tâm giao dịch để xác định giá trị quyền sử dụng đất, mà không nhất thiết phải thành lập hội đồng định giá. Trong trường hợp này cần phải có căn cứ xác định giá quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá quyền sử dụng đất do trung tâm giao dịch bất động sản niêm yết là hoàn toàn phù hợp với giá thị trường vào thời điểm xét xử sơ thẩm.
– Trách nhiệm chịu chi phí cho việc định giá do các đương sự phải chịu chi phí tương ứng với phần nghĩa vụ của họ. Trường hợp đương sự có yêu cầu định giá lại, thì người có yêu cầu phải tạm ứng trước chi phí cho việc định giá lại và Toà án sẽ quyết định ai phải chịu chi phí định giá tuỳ thuộc vào kết quả xét xử.
2.4 Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trong trường hợp đất đã được đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác xã mà sau đó tập đoàn sản xuất, hợp tác xã đã bị giải thể.
Đối với đất đã được cá nhân, tổ chức đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác xã để sử dụng chung trong quá trình thực hiện chính sách hợp tác hoá nông nghiệp mà sau khi tập đoàn sản xuất, hợp tác xã bị giải thể thì căn cứ vào quy định tại Điều 1 của Luật Đất đai năm 1987, khoản 2 Điều 2 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai năm 2003 cần phân biệt như sau:
a) Chủ cũ hoặc người thừa kế của người đó không có quyền đòi lại quyền sử dụng đất nếu đất đó đã được giao cho người khác sử dụng và họ đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, trừ trường hợp có căn cứ chứng minh người đang sử dụng đất đó có hành vi gian dối, lừa đảo… để được giao quyền sử dụng đất.
b) Chủ cũ hoặc người thừa kế của người đó có quyền đòi lại quyền sử dụng đất hoặc giá trị quyền sử dụng đất khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
– Đất không bị Nhà nước quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
– Chủ cũ có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003;
– Người đang sử dụng đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 và cũng không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 vì lý do người đó sử dụng đất là ở nhờ, mượn, thuê, lấn, chiếm đất hoặc bằng các giao dịch dân sự khác trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
III. Việc giải quyết tranh chấp về tài sản do nhà nước thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng
1. Tài sản được nhà nước cấp cho người có công với cách mạng
1.1. Trường hợp người có công với cách mạng được nhận tài sản trong thời kỳ hôn nhân khi họ còn sống thì tài sản được coi là tài sản riêng của người đó, trừ trường hợp họ đã nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng. Khi họ chết thì tài sản đó để lại cho các thừa kế của họ.
1.2. Trường hợp sau khi người có công với cách mạng đã chết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có quyết định cho họ được hưởng tài sản theo quy định của pháp luật thì tài sản đó là di sản để lại cho các thừa kế của họ.
2. Tài sản được Nhà nước cấp cho thân nhân của người có công với cách mạng
Nếu sau khi người có công với cách mạng đã chết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới quyết định cho thân nhân của họ hưởng tài sản theo quy định của pháp luật và giữa các thân nhân của người đó có tranh chấp về tài sản và yêu cầu Toà án giải quyết, thì đây là vụ án dân sự yêu cầu chia tài sản chung. Khi giải quyết cần phân biệt như sau:
a) Nếu trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có ghi cụ thể tên người được hưởng tài sản, thì chỉ người có tên mới được hưởng tài sản đó.
b) Nếu trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không ghi rõ người được hưởng tài sản gồm những người cụ thể nào mà chỉ ghi cấp chung cho thân nhân của người có công với cách mạng, thì thân nhân của người đó được hưởng chung. Việc xác định ai là thân nhân của người có công với cách mạng trong trường hợp cụ thể được thực hiện theo qui định của Chính phủ.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 5 của Quyết định số 20/2000/QĐ-TTg ngày 03/02/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ người hoạt động cách mạng từ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 cải thiện nhà ở thì thân nhân của người có công với cách mạng là vợ, chồng, các con của người đó.
Nếu trong văn bản pháp luật Chính phủ không qui định cụ thể ai là thân nhân của người có công với cách mạng mà chỉ qui định chung là thân nhân thì thân nhân của người có công với cách mạng gồm có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, người trực tiếp nuôi dưỡng người có công với cách mạng.
IV. Hiệu lực thi hành của nghị quyết
1. Nghị quyết này được Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 10 tháng 8 năm 2004 và có hiệu lực thi hành sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Những hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao được ban hành trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực về các vấn đề được hướng dẫn trong Nghị quyết này đều bãi bỏ.
2. Đối với những vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình mà Toà án đã thụ lý nhưng chưa xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm hoặc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng Nghị quyết này để giải quyết.
3. Đối với các bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành thì không áp dụng Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, trừ trường hợp việc kháng nghị bản án, quyết định có những căn cứ khác./.

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

CHÁNH ÁN

(Đã ký)

Nguyễn Văn Hiện

The post Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10 tháng 8 năm 2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình appeared first on MP Law Firm.

]]>
Law No.24/2004/QH11 of June 15, 2004 civil procedure https://mplaw.vn/en/law-no-242004qh11-of-june-15-2004-civil-procedure/ Mon, 14 Jun 2004 12:57:40 +0000 http://law.imm.fund/?p=1618 THE NATIONAL ASSEMBLY ————— SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM Independence – Freedom – Happiness ————– No. 24/2004/QH11 Hanoi, June 15, 2004   CODE CIVIL PROCEDURE Pursuant to the 1992 Constitution of the Socialist Republic of Vietnam, which was amended and supplemented under Resolution No. 51/2001/QH10 of December 25, 2001 of the X th National Assembly, the 10th session. This […]

The post Law No.24/2004/QH11 of June 15, 2004 civil procedure appeared first on MP Law Firm.

]]>

THE NATIONAL ASSEMBLY
—————

SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM
Independence – Freedom – Happiness
————–

No. 24/2004/QH11

Hanoi, June 15, 2004

 

CODE

CIVIL PROCEDURE

Pursuant to the 1992 Constitution of the Socialist Republic of Vietnam, which was amended and supplemented under Resolution No. 51/2001/QH10 of December 25, 2001 of the X th National Assembly, the 10th session.
This Law provides for the order and procedures for settling civil cases and matters and enforcing civil judgments.

Part One

GENERAL PROVISIONS

Chapter 1

TASK AND EFFECT OF THE CIVIL PROCEDURE CODE

Article 1.– Regulation scope and task of the Civil Procedure Code
The Civil Procedure Code provides for the basic principles in civil proceedings; the order and procedures for initiating lawsuits at courts to settle cases of civil, marriage and family, business, trade and labor disputes (hereinafter referred collectively to as civil cases) and the order and procedures to request courts to settle matters regarding civil, marriage and family, business, trade or labor requirements (hereinafter referred collectively to as civil matters); the order and procedures for settlement of civil cases, civil matters (hereinafter referred collectively to as civil cases and matters) at courts; the civil judgment enforcement; the tasks, powers and responsibilities of the procedure-conducting agencies, the procedure-conducting persons; the rights and obligations of persons participating in civil proceedings and of relevant individuals, State agencies, people’s armed force units, economic organizations, political organizations, socio-political organizations, professional-socio-political organizations, social organizations, socio-professional organizations (hereinafter referred collectively to as agencies, organizations) in order to ensure the speedy, accurate, judicious and lawful settlement of civil cases and matters.
The Civil Procedure Code contributes to the protection of the socialist regime, enhances the socialist legislation, protects the interests of the State, and legitimate rights and interests of individuals, agencies and/or organizations; educates people to seriously abide by law.
Article 2.- Effect of the Civil Procedure Code
1. The Civil Procedure Code shall apply to all civil proceedings throughout the territory of the Socialist Republic of Vietnam.
2. The Civil Procedure Code shall apply to all civil proceedings conducted by consular offices ofVietnam in foreign countries.
3. The Civil Procedure Code shall apply to the settlement of civil cases and matters involving foreign element(s); where international treaties which Vietnam has signed or acceded to provide otherwise, the provisions of such international treaties shall apply.
4. For foreign individuals, agencies and organizations that enjoy diplomatic privileges and immunities or consular privileges and immunities under Vietnamese laws, international treaties which the Socialist Republic of Vietnam has signed or acceded to, the civil cases or matters related to such individuals, agencies and/or organizations shall be settled through the diplomatic channel.
Chapter II

BASIC PRINCIPLES

Article 3.- Assurance of the socialist legislation in civil procedures
All civil procedural activities of procedure-conducting persons, civil procedure-participants, of relevant individuals, agencies and organizations must comply with the provisions of this Code.
Article 4.- Right to request courts to protect legitimate rights and interests
Individuals, agencies and organizations defined by this Code shall have the right to institute civil cases, request the resolution of civil matters at competent courts in order to protect the legitimate rights and interests of their own or of others.
Article 5.- Involved parties’ right to decision-making and self-determination
1. The involved parties shall have the right to decide whether to initiate civil lawsuits, request competent courts to settle civil cases or matters. The courts shall only accept for settlement civil cases and/or matters when they receive lawsuit petitions and/or written requests from the involved parties and shall settle the cases and/or matters only within the scope of such lawsuit petitions or written requests.
2. In the course of settling civil cases and/or matters, the involved parties shall have the right to terminate or change their requests or voluntarily reach agreement with one another, which is not contrary to law and social ethics.
Article 6.- Supply of evidences and proofs in civil procedures
1. The involved parties shall have the right and obligation to supply evidences to courts and prove that their requests are well grounded and lawful.
Individuals, agencies or organizations that initiate lawsuits or file their requests to protect the legitimate rights and interests of other persons shall have the right and obligation to supply evidences and to prove like the involved parties.
2. The courts shall only verify or gather evidences in the cases prescribed by this Code.
Article 7.- Responsibility of competent individuals, agencies and organizations to supply evidences
Individuals, agencies and organizations shall, within the scope of their tasks and powers, be obliged to provide the involved parties and courts with case evidences currently being under their possession or management at the requests of the involved parties and/or courts; in cases where they cannot do so, they must notify such to the involved parties and/or courts in writing and clearly state the reasons therefore.
Article 8.- Equality in rights and obligations in civil procedures
All citizens are equal before law and courts regardless of their nationalities, sexes, social status, beliefs, religions, educational levels and occupations. All agencies and organizations are equal regardless of their forms of organization, ownership and other matters.
The involved parties are equal in rights and obligations in civil procedures; the courts have the responsibility to create conditions for them to exercise their rights and perform their obligations.
Article 9.- Ensuring the involved parties’ right to defense
The involved parties shall have the right to defend by themselves or ask lawyers or other persons who satisfy the conditions prescribed by this Code to defend their legitimate rights and interests.
The courts have the responsibility to provide assurance for the involved parties to exercise their right to defense.
Article 10.- Conciliation in civil procedures
The courts have the responsibility to conduct conciliation and create favorable conditions for the involved parties to reach agreement with one another on the resolution of civil cases or matters under the provisions of this Code.
Article 11.- Participation of people’s jurors in adjudication of civil cases
The adjudication of civil cases shall be participated by people’s jurors as provided for by this Code. Upon trials people’s jurors are equal in powers to judges.
Article 12.- Judges and people’s jurors are independent in trial and only comply with law
Upon trial of civil cases, judges and people’s jurors shall be independent and only comply with law.
All acts of hindering judges and people’s jurors from performing their tasks are strictly prohibited.
Article 13.- Responsibilities of civil procedure-conducting agencies, and persons
1. Civil procedure-conducting agencies and persons must respect the people and submit to the people’s supervision.
2. Civil procedure-conducting agencies and persons shall be held responsible before law for the performance of their tasks and powers. Where the civil procedure-conducting persons commit law violation acts, they shall, depending on the nature and seriousness of their violations, be disciplined or examined for penal liability according to law provisions.
3. Civil procedure-conducting agencies and persons must keep State secrets, work secrets as prescribed by law; preserve the nation’s fine customs and practices, keep professional secrets, business secrets, personal secrets of the involved parties at their legitimate requests.
4. If civil procedure-conducting persons commit illegal acts, causing damage to individuals, agencies and/or organizations, the courts must pay damages to the victims and the civil procedure-conducting persons shall have to reimburse the courts according to law provisions.
Article 14.- Collective trial by courts
A court shall conduct the collective trial of civil cases and make decisions by majority.
Article 15.- Public trials
1. The court trial of civil cases shall be carried out publicly, anyone can attend the trials, except for cases prescribed by this Code.
2. In special cases where it is necessary to keep the State secrets or preserve the nation’s fine customs and practices, keep the professional secrets, business secrets or personal secrets of individuals at legitimate requests of the involved parties, the courts shall conduct trials behind closed doors but must publicly pronounce the judgments.
Article 16.- Ensuring impartiality of persons that conduct or participate in civil procedures
Chief judges, judges, people’s jurors, court clerks, procuracy chairmen, prosecutors, interpreters and/or expert-witnesses must not conduct or participate in civil procedures if there are good reasons to believe that they may not be impartial in performing their tasks and exercising their powers.
Article 17.- Following the two-level adjudication regime
1. The courts shall follow the regime of two-level adjudication
The courts’ first-instance judgments or decisions can be appealed or protested against under the provisions of this Code.
First-instance judgments or decisions which are not appealed or protested against according to appellate procedures within the time limit provided for by this Code shall become legally effective. Where first-instance judgments or decisions are appealed or protested against, the cases must undergo appellate trials. The appellate judgments or decisions shall be legally effective.
2. The courts’ first-instance judgments or decisions which have already taken legal effect but have been detected with law violations or new details shall be reviewed according to the cassation or reopening procedures under the provisions of this Code.
Article 18.- Supervision of trials
Superior courts supervise the adjudication by subordinate courts, the Supreme People’s Court supervises the adjudication by courts of all levels in order to ensure a strict and uniform application of law.
Article 19.- Assurance of the effect of courts’ judgments, decisions
Legally effective judgments, decisions of courts must be enforced and observed by all citizens, agencies and organizations. Individuals, agencies and organizations that have the obligation to execute the courts’ judgments, decisions must strictly execute them.
Within the scope of their respective tasks and powers, the People’s Courts and agencies or organizations, which are assigned the tasks to enforce courts’ judgments or decisions must strictly enforce them and bear responsibility before law for the performance of such tasks.
Article 20.- Spoken and written language used in civil procedures
Spoken and written language to be used in civil procedures is the Vietnamese.
Participants in civil procedures may use the voices and scripts of their ethnic groups and in this case interpreters are required.
Article 21.- Supervising the law observance in civil procedures
1. The People’s Procuracies shall supervise the law observance in civil procedures and exercise the rights to request, petition or protest according to law provisions in order to ensure lawful and timely resolution of civil cases and matters.
2. The People’s Procuracies shall participate in court sessions for cases with evidences collected by courts but complained about by the involved parties, for civil matters falling under the courts’ jurisdiction and for civil cases and matters with courts’ judgments or decisions protested against by the People’s Procuracies.
Article 22.- Courts’ responsibility to transfer documents and papers
1. The courts shall have the responsibility to transfer directly or via postal service their judgments, decisions, summons, invitations and other relevant documents to the participants in the civil procedures according to the provisions of this Code.
2. Where the courts cannot do so, the People’s Committees of communes, wards or district townships (hereinafter called collectively commune-level People’s Committees) where such persons reside or the agencies or organizations where they work shall have the responsibility to transfer the judgments, decisions, summons, invitations and other relevant papers of courts to such persons when so requested by courts and must notify the courts of the results thereof.
Article 23.- Participation of individuals, agencies, organizations in civil procedures
Individuals, agencies and organizations shall have the right and obligation to participate in civil procedures according to the provisions of this Code, and contribute to the lawful and timely resolution of the civil cases and matters at courts.
Article 24.- Assurance of the right to complaints and denunciations in civil procedures
Individuals, agencies and organizations shall have the right to complain about, individuals shall have the right to denounce, illegal acts of persons conducting the civil procedures or of any individuals, agencies or organizations in civil proceedings.
Competent agencies, organizations or individuals must accept, consider and settle promptly and lawfully complaints and denunciations; notify in writing the settlement results to the complainants and denouncers.
Chapter III

COURT’S JURISDICTION

Section 1. CIVIL CASES AND MATTERS FALLING UNDER THE COURTS’ JURISDICTION
Article 25.- Civil disputes falling under the courts’ jurisdiction
1. Disputes over the Vietnamese nationality among individuals;
2. Disputes over property ownership;
3. Disputes over civil contracts;
4. Disputes over intellectual property rights, technology transfers, except for the cases prescribed in Clause 2, Article 29 of this Code;
5. Disputes over property inheritance;
6. Disputes over compensation for non-contractual damage;
7. Disputes over the land use right and properties affixed to land under the land legislation;
8. Disputes relating to the professional press operation under law provisions;
9. Other civil disputes as stipulated by law.
Article 26.- Civil requests falling under the courts’ jurisdiction
1. The request to declare a person losing his/her civil act capacity or having his/her civil act capacity restricted; or to revoke a decision declaring a person losing his/her civil act capacity or having restricted civil act capacity;
2. The request to announce the search of persons who are absent from their residential places and the management of their properties;
3. The request to declare a person missing; or to revoke a decision to declare a person missing;
4. The request to declare a person deceased; or to revoke a decision to declare a person deceased;
5. The request to recognize and enforce in Vietnam civil judgments or decisions or decisions on properties in criminal or administrative judgments or decisions of foreign courts or not to recognize civil judgments or decisions or decisions on properties in criminal or administrative judgments or decisions of foreign courts, which are not required to be enforced in Vietnam;
6. Other civil requests as stipulated by law.
Article 27.- Marriage and family-related disputes falling under the courts’ jurisdiction
1. Divorces, disputes over child rearing or property division upon divorces.
2. Disputes over division of spousal common property during their marriage.
3. Disputes over change of post-divorce child custodian.
4. Disputes over determination of fathers or mothers for children; or determination of children for fathers or mothers.
5. Disputes over alimonies.
6. Other marriage-and family-related disputes stipulated by law.
Article 28.- Marriage-and family-related requests falling under the courts’ jurisdiction
1. The requests to revoke illegal marriages;
2. The requests to recognize voluntary divorces, child custody or property division upon divorces;
3. The request to recognize an agreement on change of post-divorce child custodian;
4. The request to restrict rights of a father or mother towards a minor child or his/her right to see the child after divorce;
5. The request to terminate the adoption of children;
6. The request to recognize and enforce in Vietnam foreign courts’ judgments or decisions on marriage and family; or not to recognize foreign courts’ judgments or decisions on marriage and family which are not required to be enforced in Vietnam;
7. Other marriage-and family-related requests stipulated by law.
Article 29.- Business, trade disputes falling under the courts’ jurisdiction
1. Disputes arising from business or trade activities among individuals and/or organizations with business registration, which are all for the purpose of profits, including:
a) Purchase and sale of goods;
b) Provision of services;
c) Distribution;
d) Commercial representation and/or agency;
e) Consignment;
f) Renting, leasing, hire-purchase;
g) Construction;
h) Consulting, engineering;
i) Cargo or passenger transportation by rail, road, or inland waterway;
j) Cargo or passenger transportation by air or sea;
k) Purchase and sale of shares, bonds and other valuable papers;
l) Investment, financing, banking;
m) Insurance;
n) Exploration and exploitation.
2. Disputes over intellectual property rights or technology transfers among individuals or organizations, which are all for the purposes of profits.
3. Disputes between a company and its members or among members of a company regarding the establishment, operation, dissolution, merger, consolidation, division, separation, organizational transformation of the company.
4. Other business, trade disputes prescribed by law.
Article 30.- Business or trade requests falling under the courts’ jurisdiction
1. The requests related to the resolution of disputes by Vietnamese commercial arbitrators under law provisions on commercial arbitration;
2. The requests to recognize and enforce in Vietnam foreign courts’ judgments or decisions on business or commercial matters, or not to recognize foreign courts’ judgments or decisions on business or commercial matters, which are not required to be enforced in Vietnam;
3. The requests to recognize and enforce in Vietnam foreign arbitrators’ awards on business or commercial matters;
4. Other business or commercial requests prescribed by law.
Article 31.- Labor disputes falling under the courts’ jurisdiction
1. Individual labor disputes between employees and employers, which cannot be conciliated by grassroots labor conciliation boards or labor conciliators of labor State management agencies of urban districts, rural districts, provincial capitals, provincial towns or which have not been settled within the time limit prescribed by law, except for the following disputes which must not necessarily be conciliated at the grassroots level:
a) Disputes over labor discipline in the form of dismissal or over cases of unilateral termination of labor contracts;
b) Disputes over damage compensation between employees and employers; over financial support upon termination of labor contracts;
c) Disputes between household servants and their employers;
d) Disputes over social insurance under the provisions of labor legislation;
e) Disputes over damage compensation between laborers and labor exporters.
2. The collective labor disputes between labor collectives and employers, which have been resolved by labor arbitration boards of provinces or centrally-run cities but the labor collectives or employers disagree with the decisions of the labor arbitration boards, including:
a) Disputes over rights and/or interests related to job, wages, income and other working conditions;
b) Disputes over the performance of collective labor accords;
c) Disputes over the rights to set up, join, or operation of, trade union.
3. Other labor disputes prescribed by law.
Article 32.- Labor requests falling under the courts’ jurisdiction
1. The request to recognize and enforce in Vietnam foreign courts’ labor judgments or decisions, or not to recognize foreign courts’ labor judgments or decisions which are not required to be enforced in Vietnam;
2. The request to recognize and enforce in Vietnam labor awards of foreign arbitrators;
3. Other labor requests prescribed by law.
Section 2. JURISDICTION OF COURTS OF DIFFERENT LEVELS
Article 33.– Jurisdiction of the people’s courts of rural districts, urban districts, provincial capitals, provincial towns
1. The people’s courts of rural districts, urban districts, provincial capitals, provincial towns (hereinafter referred collectively to as district-level people’s courts) shall have the jurisdiction to settle according to first-instance procedures the following disputes:
a) Civil disputes over marriage and family, prescribed in Articles 25 and 27 of this Code;
b) Business, trade disputes prescribed at Points a, b, c, d, e, f, g, h and i of Clause 1, Article 29 of this Code;
c) Labor disputes prescribed in Clause 1, Article 31 of this Code.
2. The district-level people’s courts shall have the jurisdiction to resolve the following requests:
a) Civil requests prescribed in Clauses 1, 2, 3 and 4 of Article 26 of this Code;
b) Marriage and family-related requests prescribed in Clauses 1, 2, 3, 4 and 5 of Article 28 of this Code.
3. Disputes and requests prescribed in Clauses 1 and 2 of this Article, which involve parties or properties in foreign countries or which must be judicially entrusted to Vietnamese consulates overseas or to foreign courts, shall not fall under the jurisdiction of the district level people’s courts.
Article 34.- Jurisdiction of the people’s courts of provinces or centrally-run cities
1. The people’s courts of provinces or centrally-run cities (hereinafter referred collectively to as the provincial-level people’s courts) shall have the jurisdiction to settle according to first-instance procedures the following cases and matters:
a) Civil, marriage- and family-related, business, trade or labor disputes prescribed in Articles 25, 27, 29 and 31 of this Code, except for disputes falling under the jurisdiction of the district-level people’s courts as provided for in Clause 1, Article 33 of this Code;
b) Civil, marriage-and family-related, business, trade or labor requests prescribed in Articles 26, 28, 30 and 32 of this Code, except for requests falling under the jurisdiction of the district-level people’s courts as prescribed in Clause 2, Article 33 of this Code;
c) Disputes and requests prescribed in Clause 3, Article 33 of this Code.
2. The provincial-level people’s courts shall have the jurisdiction to resolve according to first-instance procedures civil cases and matters falling under the jurisdiction of the district-level people’s courts as provided for in Article 33 of this Code, which are taken up by provincial-level people’s courts for settlement.
Article 35.- Territorial jurisdiction of courts
1. Territorial jurisdiction of courts to settle civil cases shall be determined as follows:
a) The courts of the localities where the defendants reside or work, if the defendants are individuals, or where the defendants are headquartered, if the defendants are agencies or organizations, shall have the jurisdiction to settle according to first-instance procedures civil, marriage- and family-related, business, trade or labor disputes prescribed in Articles 25, 27, 29 and 31 of this Code;
b) The involved parties shall have the right to agree with each other in writing to request the courts of the localities where the plaintiffs reside or work, if the plaintiffs are individuals, or where the plaintiffs are headquartered, if they are agencies or organizations, to settle civil, marriage and family-related, business, trade or labor disputes prescribed in Articles 25, 27, 29 and 31 of this Code;
c) The courts of the areas where exists immoveables shall have the jurisdiction to settle disputes over such immoveables.
2. Territorial jurisdiction of courts to settle civil matters shall be determined as follows:
a) The requested courts of the areas where persons are to be declared losing their civil act capacity or having restricted civil act capacity reside or work shall have the jurisdiction to resolve such requests;
b) The requested courts of the areas where persons absent from their residential place are to be announced for search or to be declared missing or dead reside for the last time, shall have the jurisdiction to settle requests for announcement of the search for persons absent from their residential places and management of such persons’ properties or requests for declaring a person missing or dead;
c) The courts which have issued decisions to declare persons missing or dead shall have the jurisdiction to resolve requests to revoke their decisions;
d) The courts of the areas where the persons who are obliged to execute foreign courts civil, marriage and family, business, trade, or labor judgments or decisions reside or work, if judgment debtors are individuals or where the judgment debtors are headquartered, if they are agencies or organizations, or where exists the property relating to the enforcement of such judgments or decisions of foreign courts, shall have the jurisdiction to resolve requests to recognize and enforce foreign courts’ civil, marriage and family, business, trade or labor judgments or decisions in Vietnam;
e) The courts of the areas where the request senders reside or work, if they are individuals, or where the request senders are headquartered, if they are agencies or organizations, shall have the jurisdiction to settle requests not to recognize foreign courts’ civil, marriage and family, business, trade or labor judgments or decisions, which are not required to be enforced in Vietnam;
f) The courts of the areas where the persons who are obliged to execute awards of foreign arbitrators reside or work, if the judgment debtors are individuals or where the judgment debtors are headquartered, if they are agencies or organizations or where exists the property relating to the enforcement of foreign arbitrators’ awards, shall have the jurisdiction to resolve requests to recognize and enforce in Vietnam awards of foreign arbitrators;
g) The courts of the areas where illegal marriages are registered shall have the jurisdiction to resolve requests to revoke such illegal marriages;
h) The court of the area where one of the parties to a voluntary divorce, child custody or property division resides or works shall have the jurisdiction to resolve the request to recognize the voluntary divorce, child custody, property division upon divorce;
i) The court of the area where one of the parties that requests the court to recognize their agreement on change of post-divorce child custodian resides or works shall have the jurisdiction to resolve that request;
j) The court of the area where one parent of a minor child resides or works shall have the jurisdiction to resolve a request to restrict rights of the father or mother towards the minor child or his/her right to see the child after the divorce;
k) The court of the area where an adoptive parent or adopted child resides or works shall have the jurisdiction to resolve a request to terminate the child adoption;
l) The courts’ territorial jurisdiction to resolve requests relating to the settlement of disputes by the Vietnamese commercial arbitrators shall comply with law provisions on commercial arbitration.
Article 36.- Jurisdiction of courts selected by plaintiffs or requesters
1. The plaintiffs shall have the right to select courts for resolution of civil, marriage and family-related, business, trade or labor disputes in the following cases:
a) If the plaintiffs do not know where the defendants reside or work or where their head-offices are located, they may ask the courts of the areas where the defendants last reside or work or where the head-offices of the defendants are last located or where the defendants’ properties are located to settle cases;
b) If disputes arise from the operations of a branch of an organization, the plaintiff may ask the court of the area where the organization’s head-office is located or where its branch is located to settle them;
c) If defendants do not have residence places, work places or head-offices in Vietnam or the cases related to disputes over alimonies, the plaintiffs may ask the courts of the areas where they reside or work to settle the cases;
d) If disputes are over compensation for non-contractual damage, the plaintiffs may ask the courts of the areas where they reside, work or are headquartered or where the damage is caused to settle them;
e) If disputes are over compensation for damage or allowance upon termination of labor contracts, over social insurance, the rights and/or interests in relation to job, wages, income and other working conditions, for the laborers, the plaintiffs being laborers may ask the courts of the areas where they reside or work to settle them;
f) If disputes arise from the employment of labor by sub-contractors or mediators, the plaintiffs may ask the courts of the areas where their actual employers reside, work or are headquartered or where the sub-contractors or the mediators reside or work to settle them;
g) If disputes arise from contractual relations, the plaintiffs may ask the courts of the areas where the contracts are performed to settle them;
h) If the defendants reside, work or are headquartered in different places, the plaintiffs may ask the court of the area where one of the defendants resides or works or is headquartered to settle them;
i) If disputes are over immoveables which exist in different localities, the plaintiffs may request the court of the area where one of such immoveables exist to settle them.
2. The requesters may select courts to settle their marriage and family-related requests in the following cases:
a) For civil requests prescribed in Clauses 1, 2, 3 and 4 of Article 26 of this Code, the requesters may ask the courts of the areas where they reside, work or are headquartered to resolve them;
b) For requests to revoke illegal marriages as provided in Clause 1, Article 28 of this Code, the requesters may ask the courts of the areas where the illegal marriages are registered to resolve them;
c) For requests to restrict rights of fathers or mothers towards their minor children or their right to visit the children after the divorces, the requesters may ask the courts of the areas where the children reside to resolve them.
Article 37.- Transferring civil cases or matters to other courts; settlement of disputes over jurisdiction
1. If a court has accepted a civil case or matter which does not fall within its jurisdiction, it shall issue a decision to transfer the civil case or matter dossier to a competent court and cross out the case or matter in its acceptance book. Such decision must be immediately sent to all involved parties, concerned individuals, agencies and/or organizations.
The involved parties, concerned individuals, agencies and/or organizations shall have the right to complain about such decision within three working days as from the date of receipt of the decision. Within three working days from the date of receipt of a complaint, the chief judge of the court that issued the decision to transfer the civil case or matter must resolve the complaint.
2. Any dispute over the jurisdiction between district-level people’s courts within a province shall be settled by the chief judge of the provincial people’s court.
3. Any dispute over the jurisdiction between district-level people’s courts of different provinces or centrally-run cities or between provincial people’s courts shall be settled by the chief judge of the Supreme People’s Court.
Article 38.- Merging or separating cases
1. A court may merge two or more cases which it has separately accepted into a single case for resolution if merger and resolution in the same case ensure the law compliance.
2. A court may separate a case with different claims into two or more cases if the separation and resolution of the separated cases strictly comply with law.
3. Upon case merger or separation prescribed in Clauses 1 and 2 of this Article, the courts which have accepted the cases must issue decisions and send them immediately to the involved parties and the procuracies of the same level.
Chapter IV

CIVIL PROCEDURE-CONDUCTING AGENCIES, CIVIL PROCEDURE -CONDUCTING PERSONS AND REPLACEMENT OF CIVIL PROCEDURE -CONDUCTING PERSONS

Article 39.- Civil procedure-conducting agencies, civil procedure-conducting persons
1. The civil procedure-conducting agencies include:
a) The people’s courts;
b) The people’s procuracies.
2. The civil procedure-conducting persons include:
a) The chief judges, judges, people’s jurors and court clerks;
b) Chairmen of procuracies, procurators.
Article 40.- Tasks and powers of the courts’ chief judges
1. The court’s chief judge shall have the following tasks and powers:
a) To organize the resolution of civil cases and matters falling under the court’s jurisdiction;
b) To decide on the assignment of judges to resolve civil cases or matters, people’s jurors to participate in trial panels to hear civil cases; and to decide on the assignment of court clerks to conduct procedures for civil cases and/or matters;
c) To decide on the replacement of judges, people’s jurors, and/or court clerks before the opening of court sessions;
d) To decide on the replacement of expert-witnesses and/or interpreters before the opening of court sessions;
e) To issue decisions and conduct civil proceedings under the provisions of this Code;
f) To settle complaints and/or denunciations under the provisions of this Code;
g) To protest according to the cessation or reopening procedures against legally-effective court judgments or decisions according to the provisions of this Code.
2. When the chief judge is absent, a deputy-chief judge shall be authorized by the chief judge to perform the chief judge’s tasks and powers prescribed in Clause 1 of this Article. The deputy-chief judge shall be answerable to the chief judge for the assigned tasks.
Article 41.- Tasks and powers of judges
1. To compile case files.
2. To decide to apply, change or cancel the provisional emergency measures.
3. To decide to stop or suspend the resolution of civil cases or matters.
4. To conduct conciliation for the involved parties to reach mutual agreement on the resolution of the cases under the provisions of this Code; to issue decisions recognizing the agreement of the involved parties.
5. To decide to bring civil cases to court for trial, or bring civil matters for resolution.
6. To decide to summon the participants in court sessions.
7. To participate in adjudicating civil cases and resolving civil matters.
8. To conduct other proceedings when resolving civil cases and/or matters according to the provisions of this Code.
Article 42.- Tasks and powers of people’s jurors
1. To study case files prior to the opening of court sessions.
2. To request the chief judges, judges to issue necessary decisions according to their respective competence.
3. To participate in adjudicating civil cases.
4. To conduct proceedings and vote on issues falling within the trial panels’ jurisdiction when adjudicating civil cases.
Article 43.- Tasks and powers of court clerks
1. To make necessary professional preparations prior to the opening of court sessions.
2. To announce the rules of court sessions.
3. To report to the trial panels on the list of those summoned to court sessions.
4. To write minutes of court sessions.
5. To conduct other proceedings according to the provisions of this Code.
Article 44.- Tasks and powers of procuracy chairmen
1. When performing the tasks of supervising the law observance in the civil proceedings, the procuracy chairmen shall have the following tasks and powers:
a) To organize and direct the work of supervising law observance in civil proceedings;
b) To decide on assignment of procurators to supervise law observance in proceedings, to participate in court sessions for adjudication of civil cases, sessions for resolution of civil matters according to the provisions of this Code.
c) To inspect activities of supervising the law observance in proceedings performed by procurators;
d) To decide on replacement of procurators;
e) To protest according to appellate, cassation or reopening procedures against courts judgments or decisions according to the provisions of this Code;
f) To settle complaints, denunciations according to the provisions of this Code.
2. When the procuracy chairman is absent, a deputy-procuracy chairman shall be authorized by the chairman to perform his/her tasks and powers prescribed in Clause 1 of this Article. The deputy chairman is answerable to the chairman for the assigned tasks.
Article 45.- Tasks and powers of procurators
When assigned to supervise the law observance in civil proceedings, the procurators shall have the following tasks and powers:
1. To supervise the law observance in the settlement of civil cases, civil matters by courts;
2. To supervise the law observance by participants in the procedures;
3. To supervise court judgments, decisions;
4. To participate in court sessions for adjudication of civil cases, sessions for resolution of matters according to the provisions of this Code and state the procuracies’ opinions on settlement of civil cases and/or matters;
5. To perform other tasks and powers falling within the procuracies’ jurisdiction according to the procuracy chairmen’s assignment.
Article 46.- Cases where civil procedure-conducting persons must refuse to conduct the procedures or be replaced
Civil procedure-conducting persons must refuse to conduct the procedures or be replaced in the following cases:
1. They are concurrently the involved parties, the representatives or relatives of the involved parties;
2. They have participated in the capacity as defense counsels of the legitimate rights and interests of involved parties, witnesses, expert-witnesses or interpreters in the same cases;
3. There are clear grounds to believe that they may not be impartial in performing their tasks.
Article 47.- Replacing judges or people’s jurors
Judges and/or people’s jurors must refuse to conduct the civil procedures or be replaced in the following cases:
1. In one of the cases prescribed in Article 46 of this Code;
2. They are in the same trial panel and have a close relationship with one another;
3. They have participated in the first-instance, appellate, cassation or re-opening trials of such cases, except where they are members of the Judges’ Council of the Supreme People’s Court or the Judges’ Committees of the provincial-level people’s courts, they may participate in adjudicating a case many times according to the cassation or reopening procedures;
4. They have acted as procedure-conducting persons in such cases in the capacity as procurator or court clerk.
Article 48.- Replacing procurators
Procurators must refuse to conduct civil procedures or be replaced in the following cases:
1. In one of the cases prescribed in Article 46 of this Code;
2. They have acted as procedure-conducting persons in the same case in the capacity as judge, people’s juror, procurator or court clerk.
Article 49.- Replacing court clerks
Court clerks must refuse to conduct civil procedures or be replaced in the following cases:
1. In one of the cases prescribed in Article 46 of this Code;
2. They have acted as procedure-conducting persons in the same case in the capacity as judge, people’s juror, procurator or court clerk.
Article 50.- Procedures for refusing to conduct civil procedures or requesting to replace procedure-conducting persons.
1. The refusal to conduct the procedures or the request the replacement of procedure-conducting persons before the opening of court sessions must be made in writing, clearly stating the reason(s) and grounds therefor.
2. The refusal to conduct the procedures or the request the replacement of procedure-conducting persons at court sessions must be recorded in the minutes of the court sessions.
Article 51.- Deciding on the replacement of procedure-conducting persons.
1. Prior to the opening of court sessions, the replacement of judges, people’s jurors and/or court clerks shall be decided by the courts’ chief judges; if the to be-replaced judges are courts’ chief judges, their replacement shall be decided by the chief judges of the immediate superior courts.
Prior to the opening of court sessions, the replacement of procurators shall be decided by the chairmen of the procuracies of the same level; if the to be-replaced procurators are procuracy chairmen, their replacement shall be decided by the chairmen of the immediate superior procuracies.
2. At court sessions, the replacement of judges, people’s jurors, court clerks or procurators shall be decided by the trial panels after listening to the opinions of the persons requested to be replaced. The trial panels shall discuss the matter at the deliberation rooms and make decisions by majority.
In cases where judges, people’s jurors, court clerks and/or prosecutors must be replaced, the trial panels shall issue decisions to postpone the court sessions. The appointment of other judges, people’s jurors and/or court clerks as the replacement shall be decided by the courts’ chief judges. If the to be-replaced persons are the courts’ chief judges, their replacement shall be decided by the chief judges of the immediate superior courts. The appointment of procurators as the replacement shall be decided by the chairmen of the procuracies of the same level; if the to be-replaced procurators are chairmen of the procuracies of the same level, their replacement shall be decided by the chairmen of the immediate superior procuracies.
Chapter V

COMPOSITION OF PANELS FOR RESOLUTION OF CIVIL CASES AND MATTERS

Article 52.- Composition of the panel for first-instance trial of civil cases
The panel for first-instance trial of civil cases shall be composed of one judge and two people’s jurors. In special cases, the first-instance trial panel may consist of two judges and three people’s jurors.
Article 53.- Composition of a panel for appellate trial of civil cases
The panel for appellate trial of civil cases shall be composed of three judges.
Article 54.- Composition of the panel for cassation or reopening trial of civil cases
1. The cassation or reopening trial panels of the provincial-level people’s courts shall be the Judges’ Committees of the provincial-level people’s courts.
When the Judges’ Committees of the provincial-level people’s courts conduct the cassation or reopening trials of legally effective judgments or decisions, at least two-thirds of the total number of their respective members must participate therein.
2. The cassation or reopening trial panel of a specialized tribunal of the Supreme People’s Court is composed of three judges.
3. The cassation or reopening trial panel of the Supreme People’s Court shall be the Judges’ Council of the Supreme People’s Court.
When the Judges’ Council of the Supreme People’s Court conducts the cassation or reopening trials of legally effective judgments or decisions, at least two-thirds of the total number of its members must participate therein.
Article 55.- Arrangements for resolution of civil matters
1. The civil, marriage and family, business, trade or labor requests prescribed in Clause 5 of Article 26, Clause 6 of Article 28, Clauses 2 and 3 of Article 30, and Article 32 of this Code or the appeals, protests against civil matter-settling decisions shall be settled by a board of three judges.
2. The civil, marriage and family, business, trade or labor requests which do not fall within the cases prescribed in Clause 1 of this Article shall be settled by one judge.
3. Arrangement for resolution of business or trade requests prescribed in Clause 1, Article 30 of this Code shall comply with law provisions on commercial arbitration.
Chapter VI

PARTICIPANTS IN CIVIL PROCEDURES

Section 1. INVOLVED PARTIES IN CIVIL CASES
Article 56.– Involved parties in civil cases
1. The involved parties in civil cases mean individuals, agencies and/or organizations, including the plaintiffs, the defendants and the persons with related interests and obligations.
2. The plaintiff in a civil case is the person that initiates lawsuit or the person for whom the other individual, agency or organization prescribed by this Code initiates the lawsuit to request the court to resolve the civil case when he/she/it holds that the legitimate rights and interests of that person have been infringed upon.
Agencies and organizations prescribed by this Code, which institute civil cases to request courts to protect the public interests, the State’s interests in the domains under their respective charges are also plaintiffs.
3. The defendant in a civil case is the person against whom the plaintiff initiates a lawsuit or the other individual, agency or organization prescribed by this Code initiates a lawsuit to request the court to resolve the civil case when he/she/it holds that the legitimate rights and interests of the plaintiff have been infringed upon by such person.
4. The persons with related interests and/or obligations in civil cases are those who neither initiate lawsuits nor are sued, but the resolution of the civil cases is related to their interests and/or obligations and, therefore they themselves request or other involved parties request to include them in the proceedings in the capacity as the persons with related interests and/or obligations and such requests are accepted by courts.
Where the resolution of a civil case is related to the interests and/or obligations of a person but no one requests to include him or her in the proceedings in the capacity as the persons with related interests and/or obligations, the court shall have to include that person in the proceedings in the capacity as the person with related interests and/or obligations.
Article 57.- The involved parties’ civil procedure law capacity and civil procedure act capacity
1. The civil procedure law capacity means the capability to have the law-prescribed rights and obligations in civil procedures. Every individual, agency and organization shall have the same civil procedure law capacity in requesting the court to protect his/her/its legitimate rights and interests.
2. The civil procedure act capacity means the ability to exercise one’s own rights and obligations by him/herself in civil procedures or authorize his/her representative to participate in civil procedures.
3. The involved parties being persons aged full 18 years or older shall have full civil procedure act capacity, except for persons losing their civil act capacity and persons having restricted civil act capacity or except otherwise provided for by law.
4. The involved parties being persons aged under 6 years or persons losing their civil act capacity shall not have the civil procedure act capacity. The protection of the legitimate rights and interests of such persons at courts shall be performed by their lawful representatives.
5. For the involved parties being persons aged between full 6 and under 15 years, the protection of their legitimate rights and interests at courts shall be performed by their lawful representatives.
6. The involved parties being persons aged between full 15 years and under 18 years, who have worked under labor contracts or involved in civil transactions with their own properties shall have the right to participate in civil procedures themselves regarding matters related to such labor or civil relations. In such cases, the court shall have the right to summon their lawful representatives to participate in the procedures. For other matters, the protection of their legitimate rights and interests at courts shall be performed by their lawful representatives.
7. The involved parties being agencies, organizations shall participate in civil procedures through their lawful representatives.
Article 58.- Rights and obligations of the involved parties.
1. The involved parties shall have equal rights and obligations when participating in civil procedures.
2. When participating in civil procedures, the involved parties shall have the following rights and obligations:
a) To supply evidences and proofs to defend their legitimate rights and interests;
b) To request individuals, agencies and/or organizations that are keeping, managing evidences to supply such evidences to them for submission to courts;
c) To request courts to verify, gather evidences of the cases, which they cannot do by themselves or request courts to summon witnesses, to ask for expertise, valuation; to complain with the procuracies about evidences already verified, collected by courts at requests of other involved parties;
d) To read and take notes, photocopy documents and/or evidences produced by other involved parties or collected by courts;
e) To request courts to decide on the application of provisional emergency measures;
f) To reach agreement with one another on the resolution of cases; to participate in conciliation conducted by courts;
g) To receive regular notices for the exercise of their rights and obligations;
h) To protect by themselves or ask other persons to protect their legitimate rights and interests;
i) To participate in court sessions;
j) To request the replacement of civil procedure conducting persons or participants in civil procedures under the provisions of this Code;
k) To propose to courts matters which need to be inquired from other persons; to confront each other or witnesses;
l) To argue at court sessions;
m) To be provided with extracts of court judgments and/or decisions;
n) To appeal or complain about court judgments and/or decisions according to the provisions of this Code;
o) To detect and notify to persons competent to protest the grounds for protest according to cassation or reopening procedures against courts’ legally effective judgments and/or decisions;
p) To be present under courts’ writ of summon and abide by courts’ decisions during the time of resolving of the cases;
q) To respect courts, and strictly observe the court’s rules;
r) To advance court fees and charges as stipulated by laws;
s) To strictly abide by the legally effective judgments and/or decisions of courts;
t) Other rights and obligations prescribed by law.
Article 59.- Rights and obligations of the plaintiffs
1. The plaintiffs shall have the following rights and obligations:
a) The involved parties’ rights and obligations prescribed in Article 58 of this Code;
b) To withdraw part or whole of their lawsuit claims; or modify the contents of lawsuit claims;
c) To request courts to let persons with related rights and/or interests to participate in the procedures;
d) To request the court to suspend the case resolution.
2. A plaintiff who has been duly summoned twice by the court but is still absent shall be deemed to have given up his/her lawsuit.
Article 60.- Rights and obligations of the defendants
1. The defendants shall have the following rights and obligations:
a) The involved parties’ rights and obligations prescribed in Article 58 of this Code;
b) To accept part or whole of the plaintiffs’ claims or to reject the claims of the plaintiffs;
c) To make counter-claims against the plaintiffs if they are related to the plaintiffs’ claims or set off the obligations claimed by the plaintiffs;
d) To be notified by courts of the lawsuits against them.
2. If a defendant has been duly summoned twice but is still absent, the court shall conduct the trial in his/her absence.
Article 61.- Rights and obligations of the persons with related rights and/or obligations
1. Persons with related rights and/or obligations shall have the following rights and obligations:
a/ The rights and obligations prescribed in Article 58 of this Code;
b/ To be allowed to make independent claims or participate in the procedures on the side of the plaintiffs or the defendants.
2. If the persons with related interests and obligations make independent claims, they shall have the plaintiffs’ rights and obligations prescribed in Article 59 of this Code.
3. If the persons with related interests and/or obligations participate in the procedures on the side of the plaintiff or only have interests, they shall have the plaintiffs’ rights and obligations prescribed in Article 59 of this Code.
4. If the persons with related interests and/or rights participate in the procedures on the side of the defendants or only have obligations, they shall have the defendants’ rights and obligations prescribed in Article 60 of this Code.
Article 62.- Inheritance of procedural rights and obligations.
1. Where the involved parties being individuals die while participating in the procedures and their property rights and obligations are inherited, their heirs shall participate in the procedures.
2. Where the involved parties being agencies or organizations have to terminate their operations or to be dissolved, consolidated, merged, divided, separated or organizationally transformed while participating in the procedures, the inheritance of their procedural rights and obligations shall be determined as follows:
a/ Where the organizations that have to terminate their operations or to be dissolved are joint-stock companies, limited liability companies or partnerships, the individuals and/or organizations being members of such organizations or their lawful representatives shall participate in the procedures;
b/ Where the agencies, organizations that have to terminate their operations or to be dissolved are State agencies, people’s armed force units, political organizations, socio-political organizations, professional and socio-political organizations, social organizations, socio-professional organizations or State enterprises, the lawful representatives of the superior agencies of such agencies or organizations or the lawful representatives of the agencies, organizations which are assigned to take over the former’s rights and obligations shall participate in the procedures;
c/ Where the organizations are consolidated, merged, divided, separated or organizationally transformed, the individuals or organizations that take over the former’s rights and obligations shall participate in the procedures.
3. Where the involved parties are organizations other than legal persons, whose representatives or managers die while participating in the procedures, such organizations shall have to appoint other persons as their representatives to participate in the procedures; if such organizations have to terminate their operations or to be dissolved, the individuals being members of such organizations shall participate in the procedures.
Section 2. OTHER PARTICIPANTS IN THE PROCEDURES
Article 63.- Defense counsels of involved parties’ legitimate rights and interests
1. The defense counsels of involved parties’ legitimate rights and interests are persons asked by the involved parties and accepted by courts to participate in the procedures to protect the involved parties’ legitimate rights and interests.
2. The following persons can be accepted by courts to act as defense counsels of the involved parties’ legitimate rights and interests:
a) Lawyers who participate in the procedures under the provisions of the legislation on lawyers;
b) Vietnamese citizens who have full civil act capacity, have not been convicted or have been convicted but have their criminal records remitted, who do not fall into the cases of being subject to the application of administrative handling measure of sending to medical treatment establishments, reformatories or to administrative probation; who are not officers or employees in the court, procuracy or police sectors.
3. The defense counsels of the involved parties’ legitimate rights and interests can defend the legitimate rights and interests of more than one involved party in the same case, if those persons’ legitimate rights and interests do not conflict each other. Many defense councels of the involved parties’ legitimate rights and interests may jointly defend the legitimate rights and interests of one involved party in a case.
Article 64.- Rights and obligations of defense counsels of the involved parties’ legitimate rights and interests
1. To participate in the procedures right at the time of lawsuit initiation or at any stage in the civil procedures. Defense counsels of the involved parties’ legitimate rights and interests may participate in cassation or reopening trial court sessions if the courts deem it necessary.
2. To verify, collect and supply evidences to courts, to study case files and to take notes, to copy necessary documents in the case files in order to defend the legitimate rights and interests of the involved parties.
3. To participate in conciliation, to participate in court sessions or make their written defense of the legitimate rights and interests of the involved parties.
4. To request on behalf of the involved parties the replacement of procedure-conducting persons and/or other procedure participants according to the provisions of this Code.
5. To assist the involved parties in legal matters related to the defense of their legitimate rights and interests.
6. The right and obligations prescribed at Points l, p and q, Clause 2, Article 58 of this Code.
Article 65.- Witnesses
Persons who know details related to the contents of cases may be summoned by courts to participate in the procedures in the capacity as witnesses. Persons who lose their civil act capacity cannot act as witnesses.
Article 66.- Rights and obligations of witnesses
1. To supply all information, documents and/or objects they have obtained, which are related to the resolution of cases.
2. To honestly declare details they know, which are related to the resolution of cases.
3. To refuse to make declarations if their declarations are related to State secrets, professional secrets, business secrets, personal secrets or such declarations adversely affect or harm the involved parties being their close relatives.
4. To be off duty while the courts summon them or take their testimonies, if they work in agencies or organizations.
5. To be entitled to travel expenses and other regimes as stipulated by law.
6. To request the courts which have summoned them and competent State agencies to protect their lives, health, honor, dignity, properties and other legitimate rights and interests when participating in the procedures; to complain about procedural acts of procedure-conducting persons.
7. To compensate and bear responsibility before law for damage caused to the involved parties or other persons by their untruthful testimonies.
8. To be present at court sessions under the court’s summon if the witness’s testimony must be given publicly at court sessions; where witnesses fail to show up at court sessions without plausible reasons and their absence obstruct the trial, the trial panels may issue decisions to escort them to court sessions.
9. To make commitments before courts to perform their rights and obligations, except for cases where the witnesses are minors. Those witnesses who give false testimonies, supply untruthful documents, refuse to give testimonies or are absent without plausible reasons when summoned by courts shall bear responsibility as prescribed by law.
Article 67.- Expert-witnesses
Expert-witnesses are persons who have law-prescribed necessary knowledge and/or experiences in the fields where exist objects needed to be expertised, who are selected under the agreement reached between the involved parties or called by courts to expertise the objects in question at the request of one or more involved parties.
Article 68.- Rights and obligations of expert-witnesses
1. Expert-witnesses shall have the following rights and obligations:
a) To read documents in the case files which are related to the to be-expertised objects; to request courts to provide documents necessary for the expertise;
b) To question participants in legal procedures about matters related to the to be – expertised objects;
c) To be present under the courts’ summons and answer questions related to the expertise and expertising conclusions in an honest, well-grounded and objective manner;
d) To notify the courts in writing of impossibility to conduct the expertise as the matters needed to be expertised go beyond their professional capability and/or the documents supplied in service of the expertising are inadequate or unusable;
e) To preserve the received documents and return them to courts together with their expertising conclusions or with the notices on impossibility to conduct expertise;
f) Not to arbitrarily collect documents for conducting the expertise nor to contact other participants in the procedures if such contacts effect the expertising results; not to disclose secret information they know while conducting the expertise nor to inform the expertising results to other persons, except for the judges who decide to call the expertise;
g) To enjoy travel expenses and other regimes as stipulated by law;
h) To make commitments before courts to perform their rights and obligations.
2. Those expert-witnesses who refuse to make expertising conclusions without plausible reasons or who make untruthful expertising conclusions or are absent without plausible reasons when summoned by courts must bear responsibility therefor as prescribed by law;
3. Expert-witnesses must refuse to take the job or be replaced in the following cases:
a) They fall into one of the cases prescribed in Clauses 1 and 3 of Article 46 of this Code;
b) They have participated in the procedures in the capacity as defense counsels of the legitimate rights and interests of the involved parties, as witnesses or interpreters in the same case;
c) They have conducted the procedures in the capacity as judge, people’s juror, procurator or court clerk in the same case.
Article 69.– Interpreters
Interpreters are persons capable of translating a foreign language into Vietnamese and vice versa in cases where procedure participants are unable to use Vietnamese. Interpreters shall be selected under the agreement between the involved parties and are accepted or requested by courts.
Article 70.- Rights and obligations of interpreters
1. Interpreters shall have the following rights and obligations:
a) To be present under courts’ summons;
b) To interprete truthfully, objectively and accurately;
c) To request procedure-conducting persons and/or participants to additionally explain their words which need to be interpreted;
d) Not to contact other procedure participants if such contacts affect the truthfulness, objectiveness and accuracy of their interpretation;
e) To enjoy travel expenses and other regimes as stipulated by law;
f) To make commitments before courts to perform their rights and obligations.
2. Those interpreters who deliberately provide untruthful translations or are absent without plausible reasons when summoned by courts must bear responsibility therefor as prescribed by law.
3. Interpreters must refuse to take the job or be replaced in the following cases:
a) They fall into one of the cases prescribed in Clauses 1 and 3 of Article 46 of this Code;
b) They have participated in the proceedings in the capacity as defense counsels of the legitimate rights and interests of involved parties, witnesses or expert-witnesses in the same case;
c) They have conducted the procedures in the capacity as judge, people’s juror, procurator or court clerk.
4. The provisions of this Article shall also apply to sign-language interpreters for dumb or deaf persons.
Where only representatives or relatives of the dumb or deaf persons understand their sign language, such representatives or relatives may be accepted by courts to act as interpreters for such dumb or deaf persons.
Article 71.- Procedures for refusing to give expertise opinions or interpretations or requesting the replacement of expert-witnesses or interpreters.
1. The refusal to give expertise opinions or interpretations or the request for replacement of expert-witnesses or interpreters prior to the opening of court sessions must be made in writing, clearly stating the reasons therefor.
2. The refusal to give expertise opinions or interpretations or the request for replacement of expert-witnesses or interpreters at court sessions must be recorded in the minutes of the court sessions.
Article 72.- Deciding on replacement of expert-witnesses, interpreters
1. Prior to the opening of court sessions, the replacement of expert-witnesses and/or interpreters shall be decided by courts’ chief judges.
2. At court sessions, the replacement of expert-witnesses and/or interpreters shall be decided by the trial panels after listening to the opinions of the persons requested to be replaced. The trial panels shall discuss matters in the deliberation rooms and make decisions by majority.
Where expert-witnesses or interpreters must be replaced, the trial panels shall issue decisions to postpone the court sessions. The request for other expert-witnesses or interpreters shall comply with the provisions of Articles 67 and 69 of this Code.
Article 73.– Representatives
1. The representatives in civil procedures comprise the representatives at law and the proxy representatives.
2. The representatives at law as defined in the Civil Code shall be the representatives at law in the civil procedures, except where the representative right is restricted under law provisions.
Individuals, agencies, organizations that initiate lawsuit to protect the legitimate rights and interests of others shall also be the protected persons’ representatives at law in the civil procedures.
3. The proxy representatives as defined in the Civil Code shall be the proxy representatives in civil proceedings; for divorce cases, the involved parties must not authorize others to represent them in civil procedures.
Article 74.- Rights and obligations of representatives
1. The representatives at law in civil procedures shall exercise the procedural rights and obligations of the involved parties they represent.
2. The proxy representatives in civil procedures shall exercise the procedural rights and obligations in accordance with the contents of the authorization documents.
Article 75.- Cases of disallowance to act as representatives
1. Persons must not act as representatives at law in the following cases:
a) If they are also the involved parties in the same case with the represented persons and their legitimate rights and interests are contrary to those of the represented persons;
b) If they are acting as representatives at law in civil procedures for other involved parties whose legitimate rights and interests are contrary to those of the represented persons in the same case.
2. The provisions in Clause 1 of this Article shall also apply to the case of proxy representatives in civil procedures.
3. Officials or employees in the court, procuracy or police sectors must not act as representatives in civil procedures, except for cases where they participate in civil procedures in the capacity as representatives of their agencies or as representatives at law.
Article 76.- Appointing representatives in civil procedures
While civil procedures are conducted, if any involved party is the person who has restricted civil act capacity but has no representative or his/her representative at law falls into one of the cases specified in Clause 1, Article 75 of this Code, the court must appoint the representative to participate in the proceedings at courts.
Article 77.- Termination of the representation in civil procedures
The representatives at law, the proxy representa-tives in civil procedures shall terminate their represen-tation according to the provisions of the Civil Code.
Article 78.- Consequences of the termination of representation in civil procedures
1. In cases where the representation at law terminates while the represented persons have come of age or had their civil act capacity restored such persons shall participate in civil procedures themselves or authorize other persons to participate in civil procedures according to procedures prescribed by this Code.
2. In cases where the proxy representation terminates, the involved parties or their heirs shall participate in civil procedures in person or authorize other persons to participate in the procedures according to the procedures prescribed by this Code.
Chapter VII

PROOFS AND EVIDENCES

Article 79.- Obligations to prove
1. The involved parties requesting courts to protect their legitimate rights and interests must introduce evidences to prove that such requests are well-grounded and lawful.
2. The involved parties that protest against other persons’ claims against them must prove that such protests are well-grounded and must provide evidence to prove.
3. Individuals, agencies or organizations that initiate lawsuit to protect public interests, the State’s interests, or request courts to protect others’ legitimate rights and interests must introduce evidences to prove that their lawsuits or requests are well-grounded and lawful.
4. The involved parties that are obliged to introduce evidences to prove but fail to introduce evidences or fail to introduce adequate evidences shall have to bear the consequences of such failure to prove or inadequate evidences.
Article 80.- Details and facts that are not required to be proved
1. The following details and facts are not required to be proved:
a) Details and facts that are clear and come to everyone’s knowledge and are accepted by courts;
b) Details and facts that have been identified in the court judgments or decisions which are legally effective or in decisions of competent State bodies which have come into force;
c) Details and facts that have been recorded in documents and have been duly notarized or authenticated.
2. If either involved party acknowledges or does not protest against the details or facts given by the other involved party, the latter must not prove them.
3. If an involved party has a representative to participate in the procedures, that representative’s acknowledgement is regarded as the acknowledgement of such involved party.
Article 81.- Evidences
Evidences in civil cases or matters are factual things which are handed to courts by involved parties, individuals, agencies or organizations or gathered by courts according to the order and procedures prescribed by this Code and are used by Courts as bases to determine whether the involved parties’ claims or protests are well grounded and lawful or not as well as to determine other details necessary for the proper resolution of civil cases or matters.
Article 82.- Sources of evidence
Evidences are gathered from the following sources:
1. Readable, audible or visible materials;
2. Exhibits;
3. Involved parties’ testimonies;
4. Witnesses’ testimonies;
5. Expertising conclusions;
6. On-site appraisal minutes;
7. Practices;
8. Property evaluation results;
9. Other sources prescribed by law.
Article 83.- Identifying evidences
1. Contents-readable materials shall be regarded as evidences if they are originals or copies lawfully notarized or authenticated or supplied and certified by competent agencies or organizations.
2. Audible, visible materials shall be regarded as evidences if they are presented together with documents certifying the origins of those materials or documents related to such audio and/or video recording.
3. Exhibits to be regarded as evidences must be the original and related to the cases or matters.
4. Involved parties’ testimonies, witnesses’ testimonies shall be regarded as evidences if they are recorded in writing or in audio-tapes, audio-discs, or video-tapes or discs as provided for in Clause 2 of this Article, or are given orally at court sessions.
5. Expertising conclusions shall be regarded as evidences if the expertise is conducted in accordance with the procedures prescribed by law.
6. On-site appraisal minutes shall be regarded as evidences if the appraisal is conducted in accordance with the procedures prescribed by law and they are signed by the members who participate in the appraisal.
7. Practices shall be regarded as evidences if they are recognized by the local community where such practices exist.
8. Property valuation results shall be regarded as evidences if the valuation is carried out in accordance with the procedures prescribed by law or the documents provided by pricing experts comply with the provisions in Clause 1 of this Article.
Article 84.- Hand-over of evidences
1. During the process of resolving civil cases or matters by courts, the involved parties shall have the rights and obligations to hand over evidences to the courts; if they fail to hand over the evidences or do not hand over all evidences, they must bear the consequences thereof, except otherwise provided for by law.
2. The hand-over of evidences to courts by involved parties must be recorded in the minutes of evidence hand-over and receipt. The minutes must clearly state the appellations, forms, contents, characteristics of the evidences; the number of copies, the number of pages and time of reception; the signatures or finger prints of the deliverers, the signatures of the recipients and seals of the courts. The minutes must be made in two copies, one shall be incorporated in the case files and the other shall be handed to the involved parties handing over the evidences.
3. The evidences submitted in ethnic minority languages or foreign languages to courts by the involved parties must be enclosed with their Vietnamese translations lawfully notarized or authenticated.
Article 85.- Collecting evidences
1. If it is deemed that the evidences included in the files of civil cases or matters have not constituted sufficient grounds for the resolution thereof, the judges shall request the involved parties to deliver additional evidences.
2. Where the involved parties can not collect the evidences by themselves and make requests therefor, the judges may apply one or several of the following measures to collect the evidences:
a) Taking testimonies of the involved parties, witnesses;
b) Calling expertises;
c) Deciding to valuate the properties;
d) Making on-site inspection, appraisal;
e) Authorizing the collection of evidences;
f) Requesting individuals, agencies or organizations to supply readable, audible and/or visible materials, or other exhibits related to the resolution of civil cases or matters.
3. When applying the measures specified at Points b, c, d, e, and f, Clause 2 of this Article, the judges must issue decisions clearly stating the reasons for the application and the request of the courts.
The involved parties are entitled to complain about courts’ decisions to apply evidence-gathering measures of courts. Their complaints must be addressed immediately to the procuracies. The procuracies are entitled to request the courts to verify, gather evidences on the basis of the involved parties’ complaints, and consider the participation in court sessions.
In case of necessity, the procuracies may request the involved parties, individuals, agencies and/or organizations to supply dossiers, documents and/or exhibits in order to ensure the exercise of right to appeal, cassation or reopening procedures.
Article 86.- Taking testimonies of involved parties
1. Judges shall take the testimonies of involved parties only when the latter have not yet made the written testimonies or the contents of their written testimonies are insufficient and/or unclear. The involved parties must write the testimonies themselves and sign their names thereon. Where the involved parties cannot write the testimonies by themselves, the judges shall take their testimonies. The taking of involved parties’ testimonies shall only focus on details declared inadequately and/or unclearly by the involved parties. The judges themselves or the court clerks shall record the involved parties’ testimonies in the minutes. Judges shall take testimonies of the involved parties at the court offices or outside the court offices in case of necessity.
2. The minutes recording involved parties’ testimonies must be read or heard and signed or fingerprinted by such involved parties. The involved parties may request amendments and/or supplements to be inscribed in the testimony-recording minutes and sign or fingerprint for certification. The minutes must be signed by the persons who take the testimonies, the minutes recorders and affixed with court’s seals. If the minutes are made in loose pages, each page must be signed and affixed with seal in both margins. In cases where the minutes of taking the involved parties’ testimonies are made outside the court offices, the testimony taking must be certified by witnesses or by the People’s Committees or police offices of communes, wards or district, township or by agencies or organizations where the minutes are made.
3. The taking of involved parties’ testimonies in one of the cases prescribed in Clauses 4 and 5, Article 57 of this Code must be carried out in the presence of the lawful representatives of such involved parties.
Article 87.- Taking testimonies of witnesses
1. At the involved parties’ requests or when it is deemed necessary, judges may take testimonies of witnesses at court offices or outside court offices.
2. The procedures for taking witnesses’ testimonies shall be the same as those for taking the involved parties’ testimonies provided for in Clause 2, Article 86 of this Code.
3. The taking of testimonies of witnesses aged not full 18 years, or of persons with restricted civil act capacity must be carried out in the presence of their representatives at law or guardians.
Article 88.- Confrontation
1. At the involved parties’ requests or when contradictions are deemed to have existed in the testimonies of the involved parties or witnesses, judges may conduct confrontations among the involved parties, between the involved parties and the witnesses or among the witnesses.
2. Confrontations must be recorded in minutes which must be signed by the participants in such confrontations.
Article 89.- On-site inspection, appraisal
1. On-site inspections, appraisals must be carried out by judges in the presence of representatives of the commune-level People’s Committees, or agencies, organizations where exist objects which need to be inspected, appraised, and the on-site inspections, appraisals must be notified in advance so that the relevant involved parties know and witness such inspections, appraisals.
2. On-site inspections, appraisals must be recorded in minutes. The on-site inspection, (or) appraisal minutes must clearly state the inspection, appraisal results, clearly describe the sites, contain the signatures of the persons that conduct the inspections, appraisals and the signatures or fingerprints of the involved parties if they are present, the representatives of the commune-level People’s Committees or agencies, organizations where exist the to be-inspected-appraised objects and others that are invited to participate in the inspections, appraisals. After completing the on-site inspections, appraisals minutes, the persons that conduct the inspections, appraisals must request the representatives of the commune-level People’s Committees, agencies or organizations where exist the objects which need to be inspected, appraised to sign and seal for certification.
Article 90.- Requesting expertises
1. Upon the option agreement of the involved parties, or at the request of one or more of the involved parties, judges may issue decisions calling for expertises. The decisions requesting expertises must clearly state the names and addresses of the expert-witnesses, the objects of expertise, matters that need to be expertised and specific requirements requiring the expert-witnesses’ conclusions.
2. The expert-witnesses that receive decisions requesting the expertises must carry out the expertises according to law provisions.
3. Where they deem that the expertising conclusions are inadequate, unclear or violate law, at the request of one or more involved parties, the judges may issue decisions calling additional expertises or re-expertises. The re-expertises may be conducted by the persons that have conducted the preceding expertises or by other professional agencies as provided for by law.
Article 91.- Requesting expertise of evidences denounced to be forgery
1. Where evidences are denounced to be forgery, the suppliers of such evidences may withdraw them. If not, the denouncers may request the courts to solicit expertises as provided for in Article 90 of this Code.
2. Where the evidence forgery shows criminal signs, the courts shall transfer them to the competent criminal investigation bodies.
3. The suppliers of forged evidences must compensate for damage if the forgery of evidences causes damage to others.
Article 92.- Property valuation
1. The courts shall issue decisions to valuate disputed properties in the following cases:
a) It is so requested by one or all of the involved parties;
b) The parties agree on low prices for the purposes of evading taxes or reducing payable court fees.
2. The Pricing Council set up under a court decision is composed of its chairman and members being representatives of the finance bodies and other relevant professional agencies. The Pricing Council shall carry out the valuation only when all-their members are present. When necessary, representatives of the commune-level People’s Committees of the localities where the properties subject to valuation is located shall be invited to witness the valuation. The involved parties shall be notified in advance of the time and venue of the evaluation and have the right to attend and contribute comments on the evaluation. The right to decide on the prices of the valuated properties shall rest on the Pricing Councils.
3. The finance agencies and other relevant professional agencies shall be responsible for sending their officials to join the Pricing Councils and create conditions for them to perform their tasks. Persons appointed to be members of the Pricing Council must take part fully in the valuation.
4. The valuation must be recorded in minutes, stating clearly the opinions of each member, of the involved parties if they attend. A decision of the Pricing Council must be voted for by more than half of its members. The Pricing Council members, the involved parties, the witnesses must sign the minutes.
Article 93.- Entrusting the collection of evidences
1. In the course of resolving civil cases or matters, a court may issue a decision to entrust another court or competent agencies defined in Clause 4 of this Article to take the testimonies of involved parties, and/or witnesses, to conduct on-site appraisals or property valuations or other measures to gather evidences and to verify details of the civil cases or matters.
2. The entrustment decisions must clearly state the names and addresses of the plaintiffs and the defendants, the disputed relationship and specific entrusted jobs to collect of evidences.
3. The court that receives the entrustment decision shall have the responsibility to perform the specific assignments within thirty days after receiving the entrustment decision and notify in writing the results to the court that has issued the entrustment decision. In cases where it cannot realize the specific assignments, it must send a written notification of such failure stating clearly the reasons therefor to the court that has issued the entrustment decision.
4. Where the gathering of evidences must be conducted outside the Vietnamese territory, the courts shall carry out the entrustment procedures through competent Vietnamese agencies or civil procedure-conducting agencies of the foreign country(ies) that has (have) signed judicial assistance agreement(s) with Vietnam or together with Vietnam has (have) acceded to an international treaty on this matter.
Article 94.- Requesting individuals, agencies and/or organizations to supply evidences
1. Where the involved parties that have applied necessary measures to gather evidences still fail to gather by themselves, they may request the courts to collect evidences in order to ensure the proper resolution of civil cases and/or matters.
The involved parties that request the courts to gather evidences shall make their written applications clearly stating the point(s) to be proved, the evidence to be gathered, the reasons why they can not gather the evidences by themselves; full names and addresses of the individuals, agencies or organizations that are managing or keeping the evidences which need to be collected.
2. The court may request directly or in writing individuals, agencies or organizations that are managing a keeping the evidences to supply them. The individuals, agencies or organizations that are managing or keeping such evidences shall have the responsibility to supply the evidences fully and in time as requested by the courts within fifteen days as from the date of receiving the requests.
Article 95.- Preserving evidences
1. If evidences have been handed over at courts, the preservation of such evidences shall rest with the courts;
2. If evidences cannot be handed over at courts, the preservation of such evidences shall rest with the evidence keepers;
3. Where it is necessary to hand over evidences to the third persons for preservation, judges shall issue decisions and make minutes of the hand-over to those persons for preservation. The persons undertaking the preservation must sign the minutes, be entitled to remuneration and bear the responsibility for preserving such evidences.
Article 96.- Assessing evidences
1. The assessment of evidences must be objective, comprehensive, adequate and accurate.
2. Courts must assess evidences one by one, the link between evidences and determine the legality of every evidence.
Article 97.- Disclosing and using evidences
1. Every evidence shall be publicly and equally disclosed and used, except for cases specified in Clause 2 of this Article.
2. Courts shall not publicize evidences related to State secrets, fine customs and practices of the nation, professional secrets, business secrets or secrets of individuals’ private lives at the legitimate requests of the involved parties.
3. Procedure-conducting persons and procedure participants must keep secret, as provided for by law, evidences classified for non-disclosure as prescribed in Clause 2 of this Article.
Article 98.- Protecting evidences
1. Where evidences are being destroyed or are in danger of being destroyed or is hard to be gathered in the future, the involved parties may file their applications requesting the courts to decide on the application of necessary measures to preserve evidence. The courts may decide to apply one or several of the measures including sealing, keeping, photographing, audio-recording, video-recording, restoration, examination, minutes making and other measures.
2. Where witnesses are threatened, controlled or bought off for the purpose of not supplying evidences or supplying untruthful evidences, the courts shall have the right to issue decisions to force the persons who have committed acts of threatening, controlling or buying off the witnesses to terminate their acts. Where the threatening controlling or buying-off acts show criminal signs, the courts shall request procuracies to examine the penal liability.
Chapter VIII

PROVISIONAL EMERGENCY MEASURES

Article 99.- Right to request the application of provisional emergency measures
1. During the resolution of civil cases, the involved parties or their lawful representatives or agencies, organizations instituting the cases to protect the legitimate rights and interests of other persons defined in Clauses 1 and 2, Article 162 of this Code are entitled to request the courts handling such cases to apply one or more provisional emergency measures provided for in Article 102 of this Code to provisionally deal with the urgent requests of the involved parties, to protect evidences preserving their current conditions in order to avoid irrecoverable damage or to ensure the judgment execution.
2. In urgent cases where it is necessary to immediately protect evidences or to prevent possible serious consequences, relevant individuals, agencies or organizations may file their applications to request the competent courts to issue decisions to apply provisional emergency measures prescribed in Article 102 of this Code simultaneously with the filing of applications to initiate the lawsuits to such courts.
3. The courts shall issue decisions on their own to apply the provisional emergency measures only in the cases provided for in Article 119 of this Code.
Article 100.- Competence to decide on the application, change or cancellation of provisional emergency measures
1. The application, change, cancellation of provisional emergency measures before the opening of a court session shall be considered and decided by a judge.
2. The application, change, cancellation of provisional emergency measures at court sessions shall be considered and decided by the trial panels.
Article 101.- Responsibilities for improper application of provisional emergency measures
1. The persons who request the courts to apply provisional emergency measures must be responsible before law for their requests. Where the requests for application of provisional emergency measures are made improperly, thus causing damage to the persons against whom the provisional emergency measures are applied or to the third persons, compensation must be made.
2. If the courts apply the provisional emergency measures improperly, thus causing damage to those subject to such measures or the third persons, the courts shall have to pay compensation therefor in the following cases:
a) The courts have applied the provisional emergency measures on their own;
b) The courts have applied other provisional emergency measures than those requested by individuals, agencies or organizations;
c) The courts have applied the provisional emergency measures beyond the requests of individuals, agencies or organizations.
Article 102.- Provisional emergency measures
1. Assigning minors to individuals or organizations to look after, nurture, take care of and educate them;
2. Forcing the prior performance of part of the alimony obligation;
3. Forcing the prior performance of part of the obligation to compensate for damage to individuals whose lives and/or health have been infringed upon;
4. Forcing the employers to advance wages, remunerations or compensations, allowances for labor accidents or occupational diseases incurred by employees;
5. Suspending the execution of decisions on dismissing employees;
6. Distraining the disputed properties.
7. Prohibiting the transfer of property right over the disputed properties.
8. Prohibiting the change of the current conditions of disputed properties.
9. Permitting the harvesting, sale of subsidiary food crops or other products, commodities.
10. Freezing accounts at banks or other credit institutions, State treasury; freezing properties at places of their deposit.
11. Freezing properties of the obligor.
12. Prohibiting involved parties from performing, or forcing them to perform certain acts.
13. Other provisional emergency measures provided for by law.
Article 103.- Assigning minors to individuals or organizations to look after, nurture, take care of, educate them
The assignment of minors to individuals or organizations to look after, nurture, take care of, educate them shall apply if the resolution of cases involves minors who have no guardians.
Article 104.- Forced prior performance of part of the alimony obligation
The forced prior performance of part of the alimony obligation shall apply if the resolution of cases is related to alimony requests which are deemed well-grounded and the failure to immediately perform in advance part of the alimony obligation shall affect the health and/or life of the persons entitled to the alimony.
Article 105.- Forced prior-performance of part of the obligation to pay compensation for damage to health or life
Forced prior performance of part of the obligation to pay compensation for damage to health or life shall apply if the case resolution is related to requests for compensation for damage to health or life and the requests are deemed well-grounded and necessary.
Article 106.- Forcing employers to advance salary, remunerations, compensations or allowances for labor accidents or occupational diseases incurred by employees
Forcing employers to advance salary, remunerations, compensations or allowances for labor accidents or occupational diseases incurred by employees shall apply if the case resolution is related to requests for payment of salary, remunerations, compensations or allowances for labor accidents or occupational diseases and the requests are deemed well-grounded and necessary.
Article 107.- Suspending the execution of decisions on dismissing employees
The suspension of execution of decisions on dismissing employees shall apply if the case resolution is related to the dismissal of employees and the decisions on dismissing employees are deemed illegal or seriously affecting the life of the employees.
Article 108.- Distraining disputed properties
1. The distraint of disputed properties shall apply if in the course of settling cases there are grounds showing that the keepers of the disputed properties are committing acts of dispersing or destroying the properties.
2. The distrained properties may be kept and preserved at the offices of the judgment-executing bodies or assigned in minutes to one involved party or the third person for management until a decision of the court is issued.
Article 109.- Prohibiting the transfer of property right over disputed properties.
The prohibition of transfer of property right over disputed properties shall apply if in the course of settling cases there are grounds showing that the persons possessing or keeping the disputed properties are committing acts of transferring the property right over the disputed properties to other persons.
Article 110.- Prohibiting the change of existing conditions of disputed properties
The prohibition to change the existing conditions of disputed properties shall apply if in the process of settling cases there are grounds showing that the persons possessing or keeping the disputed properties are committing acts of disassembly, assembly, expansion or other acts, thus changing the existing conditions of such properties.
Article 111.- Permitting to harvest and sell subsidiary food crops or other products or commodities
The permission to harvest and sell subsidiary food crops or other products and commodities shall apply if in the course of settling cases, disputed properties are related to subsidiary food crops or other products, commodities, which are in the period of harvesting or cannot be preserved for a long time.
Article 112.- Freezing accounts at banks, other credit institutions, State Treasury
Freezing accounts at banks, other credit institutions, State Treasury shall apply if in the course of settling cases there are grounds showing that the obligors have accounts at banks, other credit institutions or State Treasury and the application of this measure is necessary to ensure the settlement of the cases or to ensure the judgment enforcement.
Article 113.- Freezing assets at depositories
Freezing assets at depositories shall apply if in the course of settling cases there are grounds showing that the obligors have their assets deposited and the application of this measure is necessary to ensure the settlement of the cases or to ensure the judgment enforcement.
Article 114.- Freezing the obligors’ properties
Freezing the obligors’ properties shall apply if in the course of settling cases there are grounds showing that the obligors have such properties and the application of this measure is necessary to ensure the settlement of the cases or to ensure the judgment enforcement.
Article 115.- Prohibiting or forcing the performance of certain acts
Prohibiting or forcing the performance of certain acts shall apply if in the course of settling cases there are grounds showing that the non-performance or performance of certain acts by involved parties or individuals, agencies and/or organizations has affected the case resolution or the legitimate rights and interests of others that are involved in the cases being resolved by courts.
Article 116.- Application of other provisional emergency measures
Where it is provided for by law, the courts may apply other provisional emergency measures than those prescribed in Clauses 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 and 12 of Article 102 of this Code.
Article 117.- Procedures for application of provisional emergency measures
1. The persons who request courts to apply provisional emergency measures must file their applications to competent courts. Such an application must contain the following principal details:
a) Date of the application;
b) Name and address of the requester for the application of provisional emergency measures;
c) Name and address of the person to be subject to the application of provisional emergency measures;
d) Summarized contents of the dispute or act of infringing upon the legitimate rights and interests of his/her own;
e) Reasons for the application of the provisional emergency measures;
f) Provisional emergency measures to be applied and specific requirements.
Depending on the requests for application of provisional emergency measures, the requesters must provide the courts with evidences to prove the necessity to apply such provisional emergency measures.
2. For cases of requesting the application of the provisional emergency measures prescribed in Clause 1, Article 99 of this Code, the judges assigned to settle the cases must consider and settle them. Within three days after the receipt of the applications, if the requesters do not have to apply security measures or immediately after such persons apply the security measures prescribed in Article 120 of this Code, the judges must issue decisions to apply the provisional emergency measures; if rejecting the requests, the judges shall notify such in writing to the requesters, clearly stating the reasons therefore.
Where the trial panels receive the written requests for application of provisional emergency measures at court sessions, the trial panels shall consider and issue decisions to apply the provisional emergency measures immediately or after the requesters have completely applied the security measures prescribed in Article 120 of this Code.
3. For case of requesting the application of provisional emergency measures prescribed in Clause 2, Article 99 of this Code, after receiving a written request together with the lawsuit petition and accompanying evidences, the court’s chief judge shall appoint one judge to receive and settle the request. Within 48 hours after receiving the written request, the judge must consider and issue a decision to apply provisional emergency measures; if rejecting the request, the judge must notify such in writing to the requester, clearly stating the reasons therefor.
4. Where the provisional emergency measures provided for in Clauses 10 and 11 of Article 102 of this Code are applied, it is only permitted to freeze the bank accounts or properties with value equivalent to the property obligations to be performed by the persons subject to the application of provisional emergency measures.
Article 118.- Proposing the application of provisional emergency measures by agencies or organizations which initiate lawsuits to protect others’ rights and interests
Agencies, organizations initiating lawsuits to protect others’ rights and interests as prescribed in Clauses 1 and 2, Article 162 of this Code shall propose in writing the courts to apply provisional emergency measures, clearly stating the reasons therefor; the to be-applied provisional emergency measures; names and addresses of persons with legitimate rights and interests to be protected; names and addresses of persons requested to be subject to provisional emergency measures; summarized contents of disputes or acts of infringing upon the legitimate rights and interests of involved parties; evidences to prove that their proposals are well-grounded and lawful.
Article 119.– The courts themselves issue decisions to apply provisional emergency measures
The courts shall themselves issue decisions to apply the provisional emergency measures prescribed in Clauses 1, 2, 3, 4 and 5, Article 102 of this Code in cases where the involved parties do not request the application thereof.
Article 120.- Forcible application of security measures
1. The persons who request the courts to apply one of the provisional emergency measures prescribed in Clauses 6, 7, 8, 10 and 11, Article 102 of this Code must deposit a money sum, precious metals, precious stones or valuable papers as determined by the courts, which must be equivalent to the property obligation to be performed by the obligor in order to protect the interests of the persons against whom the provisional emergency measures are applied and to prevent the abuse of right to request the application of the provisional emergency measures by requesters.
For cases prescribed in Clause 2, Article 99 of this Code, the time-limit for application of security measures provided for in this Article must not exceed 48 hours after the filing of application.
2. Deposit sum, precious metals, precious stones or valuable papers must be deposited into the frozen accounts at the banks of the localities where the courts deciding to apply the provisional emergency measures are headquartered within the time limits set by the courts.
Where the security measures are taken on public holidays or weekends, the deposited money sums shall be kept at courts. The courts must carry out the procedures for handover and reception thereof and immediately deposit such money sums at banks on the following working day.
Article 121.- Changing, additionally applying provisional emergency measures
When the provisional emergency measures being applied are deemed no longer suitable and need to be changed or other provisional emergency measures should be additionally applied, the procedures for changing the provisional emergency measures or additionally applying other provisional emergency measures shall comply with the provision in Article 117 in this Code.
Article 122.- Cancellation of the application of provisional emergency measures
1. The courts shall immediately issue decisions to cancel the applied provisional emergency measures in one of the following cases:
a) It is so requested by the persons who have requested the application of provisional emergency measures;
b) The persons who are obliged to execute the decisions on application of provisional emergency measures shall deposit property as security or other persons apply measures to secure the performance of the obligations toward the requesters.
c) Civil obligations of the obligor terminate as provided for in the Civil Code.
2. In case of canceling the application of provisional emergency measures, the courts must consider and permit the persons who have requested the application of provisional emergency measures to receive back the security money sums, precious metals, precious stones or valuable papers prescribed in Article 120 of this Code, except for the cases specified in Clause 1, Article 101 of this Code.
Article 123.- Effect of decisions on application, change or cancellation of provisional emergency measures
1. Decisions on application, change, or cancellation of provisional emergency measures shall take immediate implementation effect.
2. The courts must issue or send decisions on application, change or cancellation of provisional emergency measures to the requesters, the persons subject to the application thereof, and relevant individuals, agencies and organizations, and competent civil judgment-executing bodies and procuracies of the same level immediately after the issuance of such decisions.
Article 124.- Complaint, petitions about decisions on application, change or cancellation or non-application, non-change, non-cancellation of provisional emergency measures
The involved parties shall have the right to complain, and the procuracies shall have the right to petition to the chief judges of competent courts which are settling cases about decisions on application, change or cancellation of provisional emergency measures, or about the non-issuance of such decisions by judges. The time limit for lodging a complaint or petition is three working days after the receipt of the decision on application, change or cancellation of provisional emergency measures or the replies of judges about the non-issuance of decisions on application, change or cancellation of provisional emergency measures.
Article 125.- Setting complaints and petitions about decisions on application, change, cancellation, or non-application, non-change, non-cancellation of the provisional emergency measures
1. The chief judges of courts must consider and settle complaints and petitions prescribed in Article 124 of this Code within three working days after the receipt of the complaints or petitions.
2. The chief judges’ decisions on settlement of complaints, petitions shall be the final ones and must be issued or sent immediately according to the provisions of Clause 2, Article 123 of this Code.
3. At court sessions, the settlement of complaints or petitions falls within the jurisdiction of the trial panels. The trial panels’ decisions on settlement of complaints or petitions shall be the final ones.
Article 126.- Execution of decisions on application, change or cancellation of provisional emergency measures
1. The decisions on application, change or cancellation of provisional emergency measures shall be executed in accordance with law provisions on civil judgment execution.
2. For the decisions on application of provisional emergency measures involving properties with ownership registration, the involved parties are obliged to submit copies of the decisions to the agencies managing the ownership registration.
Chapter IX

COURT FEES, CHARGES AND OTHER PROCEDURAL EXPENSES

Section 1. COURT FEES AND CHARGES
Article 127.- Court fee advance, charge advance, court fees and charges
1. Court fee advances shall include first-instance court fee advances and appellate court fee advances.
2. Court fees shall include first-instance court fees and appellate court fees.
3. Charges shall include charges for providing copies of judgments, decisions or other documents of courts, charges for filing applications requesting courts to settle civil matters, charges for settlement of civil matters and other charges stipulated by law.
Article 128.- Handling of collected court fee advance, charge advance, court fees and charges
1. All collected court fees and charges must be fully and timely remitted into the State budget at the State Treasury.
2. Court fee advance and charge advance shall be submitted to the competent judgment-executing agencies for deposit in custody accounts opened at the State Treasury, and shall be withdrawn for judgment execution under court decisions.
3. If the persons who have advanced court fees or charges must bear such fees and/or charges, immediately after the court judgments or decisions take implement effect, the collected advance amounts must be remitted into the State budget.
In cases where the persons who have advanced court fees and/or charges are entitled to partial or full reimbursement of the amounts they have paid under court judgments or decisions, the judgment-executing agencies which have collected the court fee advances or charge advances must carry out procedures to return the money to them.
4. In cases where the resolution of the civil cases or matters is suspended, the already advanced court fees and/or advanced charges shall be disposed when the resolution of the civil cases or matters resumes.
Article 129.- Regime of collection and expenditure of court fee advances, charge advances, court fees and charges
The collection of court fee advances and court fees, charge advances and court charges; and the expenditure of court fee advances, charge advances must comply with law provisions.
Article 130.- Obligation to advance court fees and advance charges
1. The plaintiffs, the defendants who have made counter-claims against the plaintiffs and the persons with related rights and interests who have made independent claims in civil cases must advance first-instance court fees; the persons who have made appeals must advance appellate court fees, except for cases where they are exempted from, or do not have to pay court fee advances.
2. Persons who have filed applications requesting courts to settle civil matters must advance charges for the resolution of such civil matters, except for cases where they do not have to pay the charge advances.
Article 131.- Obligation to pay first-instance court fees
1. The involved parties must bear the first-instance court fees if their requests are not accepted by courts, except for cases where they are exempted from, or do not have to pay such fees.
2. In cases where the involved parties cannot themselves determine their portions in the common properties, and request the courts to settle the division of the common properties, each party must pay the first-instance court fee corresponding to the value of the property portion she/he/it enjoys.
3. If prior to the opening of court sessions, the courts conduct with conciliations and the involved parties have reached mutual agreement on the resolution of cases, they must bear 50% of the first-instance court fee level prescribed in Clauses 1 and 2 of this Article.
4. The plaintiffs in divorce cases must pay first-instance court fees, without depending on whether the courts accept their requests or not. In cases where both parties voluntarily agree on their divorce, each involved party must bear half of the first-instance court fees.
5. If an involved party to a case is exempted from the first-instance court fee, then the other involved party shall still have to pay the first-instance court fee payable under Clauses 1, 2, 3 and 4 of this Article.
6. Where the case is suspended, the obligation to pay first-instance court fee shall be decided when the resolution of the case resumes in accordance with the provisions in Clauses 1, 2, 3, 4 and 5 of this Article.
Article 132.- Obligation to pay appellate court fees
1. The appellant must pay the appellate court fees, if the appealed first-instance judgments or decision are maintained by the courts of appeal, except for cases where the appellants are exempted from, or do not have to pay such fees.
2. The appellants shall not pay the appellate court fees, if the appealed first-instance judgments or decisions are amended by the courts of appeal. The courts of appeal must re-determine the obligation to pay first-instance court fees as provided for in Article 131 of this Code.
3. Where the courts of appeal abrogate the appealed first-instance judgments or decisions for first-instance re-trial, the appellants shall not be obliged to pay the appellate court fees. The obligation to pay court fees shall be re-determined when the cases are retried.
Article 133.- Obligation to pay charges
The obligation to pay charges shall be determined depending on specific types of civil matters and shall be prescribed by law.
Article 134.- Specific provisions on court fees and charges
Court fees, court fee level applicable to each specific type of case, types of charges and the specific charge levels, the cases of exemption or non-payment of court fee or charge advances, the cases of exemption or non-payment of court fees or charges, and other specific matters concerning court fees and charges, which are not prescribed in this Code, shall be stipulated by the National Assembly Standing Committee.
Section 2. OTHER PROCEDURAL EXPENSES
Article 135.- Expertising expense advances, expertising expenses
1. Expertising expense advance is a sum of money estimated by the organization or individual requested by the court to conduct an expertise under a court decision.
2. Expertising expense means a reasonable and necessary sum of money to be spent for the expertise and calculated by the organization or individual conducting such expertise, on the basis of law provisions.
Article 136.- Obligation to pay expertising expense advances
1. The persons who request expertises must pay expertising expense advances, except otherwise agreed upon by the parties or provided for by law.
2. In cases where the involved parties agree to choose the expertising agency, or jointly request expertise of the same object, each party must pay half of the expertising expense advance, except otherwise agreed upon by the parties or provided for by law.
Article 137.- Handling of paid expertising expense advances
1. In cases where the persons who have advanced expertising expenses do not have to pay the expertising expenses, the persons who must pay the expertising expenses under court decisions must refund the money to the persons who have paid them.
2. In cases where the persons who have paid the expertising expense advances are obliged to pay the expertising expenses, but the paid advance money is not enough to cover the actual expertising expenses, such persons must pay the deficit amount. If the advanced amounts exceed the actual expertising expenses, the surplus shall be refunded to the persons who have advanced the money.
Article 138.- Obligation to pay expertising expenses
In cases where the parties do not otherwise agree or the law does not otherwise prescribe, the obligation to pay expertising expenses shall be determined as follows:
1. The persons who request expertises must pay the expertising expenses if the expertising results prove that their requests are groundless.
2. The persons who do not accept the expertising requests must pay the expertising expenses if the expertising results prove that the expertising requests are well grounded.
Article 139.- Valuation expense advances, valuation expenses
1. The valuation expense advance means a sum of money estimated by the Evaluation Boards for valuation conducted under a court decision.
2. Valuation expenses are the reasonable and necessary sums of money to be paid for the valuation and calculated by the Valuation Boards on the basis of law provisions.
Article 140.- Obligation to advance valuation expenses
1. The persons who request the valuations must advance valuation expenses, except otherwise agreed upon by the parties or provided for by law.
2. In cases where the involved parties could not agree on the prices and request the courts to conduct the valuation, or for cases prescribed at Point b, Clause 1, Article 92 of this Code, each party must pay half of the valuation expenses.
Article 141.- Handling of the paid valuation expense advance
1. In cases where the persons who have advanced the valuation expenses do not have to pay the valuation expenses, the persons who are obliged to pay the valuation expenses under court decisions must refund the money to the persons who have advanced the valuation expenses.
2. In cases where the persons who have advanced the valuation expenses are obliged to pay them, but advanced amounts are not enough to cover the actual valuation expenses, such persons must pay the deficits. If the advanced sums exceed the actual valuation expenses, the surpluses shall be refunded to the persons who have advanced the money.
Article 142.- Obligation to pay valuation expenses
In cases where the involved parties do not otherwise agree or the law does not otherwise prescribe, the obligation to pay valuation expenses shall be determined as follows:
1. The persons who have requested the valuation must pay the valuation expenses if the valuation results prove that their requests are groundless.
2. The persons who do not accept the valuation requests must pay valuation expenses if the valuation results prove that the valuation requests are well-grounded.
3. In cases where the parties could not agree on the prices and request the courts to conduct the valuation, each party must pay half of the valuation expenses.
4. In cases where the courts issue decisions on valuation as provided for at Point b, Clause 1, Article 92 of this Code:
a) Each involved party must pay half of the valuation expenses if the valuation results prove that the courts’ valuation decisions are well grounded.
b) The courts shall pay the valuation expenses if the valuation results prove that the courts’ valuation decisions are groundless.
5. In cases where the valuation is conducted for the purpose of dividing a common property, each person who has received a share from such property must bear the valuation expense amount proportionate to the value of the property share he/she has received.
Article 143.- Expenses for witnesses
1. Reasonable and actual expenses for witnesses shall be borne by the involved parties.
2. The persons who request the courts to summon witnesses must bear the expenses for such witnesses, if the testimonies of the witnesses are true but not right for the demands of the person requesting to summon such witnesses. If the testimonies are true and right for the demands of the persons requesting to summon such witnesses, the expenses must be borne by the party making requests independent from the former’s requests.
Article 144.- Expenses for interpreters and lawyers
1. Expenses for interpreters mean sum of money payable to interpreters in the course of settling civil cases or matters as agreed upon by the involved parties and the interpreters or stipulated by law.
2. Expenses for lawyers mean sums of money payable to lawyers as agreed upon by the involved parties and the lawyers within the prescribed scope of the lawyer’s office and according to law provisions.
3. Expenses for interpreters or lawyers shall be borne by the persons requesting such interpreters or lawyers, except otherwise agreed upon by the parties.
4. Where the courts request interpreters, the expenses for the interpreters shall be paid by the courts.
Article 145.- Specific provisions on other procedural expenses
Specific expenses for expertises, valuation and specific expenses for witnesses, interpreters, lawyers shall be stipulated by the National Assembly Standing Committee.
Chapter X

ISSUANCE, SENDING AND NOTIFICATION OF PROCEDURAL DOCUMENTS

Article 146.- Obligation to issue, send or notify procedural documents
The courts, the procuracies and the judgment-executing agencies bodies have the obligation to issue, send or notify procedural documents to the involved parties, other participants in procedures and relevant individuals, agencies and/or organizations according to the provisions of this Code.
Article 147.- Procedural documents to be issued, sent or notified
1. Judgments and decisions of courts.
2. Lawsuits petitions, appeals, protest decisions.
3. Written notices, summons, invitations in civil procedures.
4. Receipts of collection of court fee or charge advances, court fees, charges and other expenses.
5. Other procedural documents prescribed by law.
Article 148.- Persons effecting the issuance, sending or notification of procedural documents.
1. The issuance, sending or notification of procedural documents shall be carried out by the following persons:
a) Civil procedure-conducting persons or people of the procedure document-promulgating agencies who are tasked to issue, send or notify procedural documents;
b) The commune-level People’s Committees of the localities where the civil procedure participants reside or the agencies or organizations where the civil procedure participants work when so requested by courts;
c) The involved parties, their representatives or the defense counsels of the involved parties’ legitimate rights and interests in the cases prescribed by this Code.
d) Postmen;
e) Other persons defined by law.
2. Persons who are obliged to effect the issuance, sending or notification but fail to properly perform their responsibilities, shall, depending on the nature and seriousness of their violation, be disciplined, administratively handled or examined for penal liability; if causing damage, they must compensate therefor according to law provisions.
Article 149.- Modes of issuing, sending or notifying procedural documents
The issuance, sending or notification of procedural documents may be effected by the following modes:
1. Issuance, sending or notification is effected directly or by post office or by the authorized third person;
2. Public posting;
3. Announcement on the mass media.
Article 150.- Validity of the issuance, sending or notification of procedural documents
1. The issuance, sending or notification of procedural documents, which is carried out in accordance with this Code, shall be considered valid.
2. The persons who are obliged to effect the issuance, sending or notification of procedural documents must comply with the provisions of this Code.
The persons who are obliged to execute the procedural documents that have been issued, sent or notified must strictly execute them; in case of failure to execute them or improper execution thereof, they shall, depending the nature and seriousness of their violation, be administratively sanctioned or examined for penal liability; if causing damage, they must compensate therefor according to law provisions.
Article 151.- Procedures for direct issuance, sending or notification
The persons effecting the issuance, sending or notification of procedural documents must directly hand the relevant procedural documents to the persons to whom such documents are issued, sent or notified. The latter must sign in the minutes or books recording the delivery and receipt of procedural documents. The time for calculating the procedural time limit is the date when they are issued or sent with, or notified of, the procedural documents.
Article 152.- Procedures for direct issuance, sending or notification to individuals
1. If the persons to whom procedural documents are issued, sent or notified are individuals, the procedural documents must be delivered directly to them.
2. If they are absent, the procedural documents may be handed to their relatives who have full civil act capacity and live with them, then request such persons to pledge to personally hand the documents to the former. The date when the co-residing relatives sign for the receipt of the documents shall be considered the date of issuance, sending or notification.
Where the former do not have any relatives who have full civil act capacity and live with them or their relatives refuse to receive the procedural documents on their behalf, such procedural documents can be handed over to the population group leaders, village or hamlet chiefs (hereinafter referred collectively to as population group leaders), People’s Committees or police offices of the communes, wards or district townships where the persons to whom the procedural documents are issued, sent or notified reside and request such persons to hand the documents in persons to them.
3. If the issuance, sending or notification is effected through other persons, the issuers, senders or notifiers must make a minutes clearly stating the absence of the persons to whom the documents are sent or notified; the persons to whom the procedural documents are delivered; reasons; the date and time of delivery; the relationship between the persons to whom the procedural documents are issued, sent or notified and the persons to whom the procedural documents are delivered, the latter’s pledge to deliver the documents in person to the former. The minutes must be signed by the persons who undertake to deliver the procedural documents and the issuers, senders or notifiers and the witnesses.
4. Where the persons to whom the procedural documents are issued, sent or notified have moved to new places with a new addresses, the documents must be issued, sent or notified to them according to their new addresses.
5. Where the persons to whom the procedural documents are issued, sent or notified are absent and the time of their return or their addresses are not known, the issuers, senders or notifiers must make record on failure to issue, send or notify, which shall be signed by the persons who have supplied the information.
6. Where the persons to whom the procedural documents are issued, sent or notified refuse to receive such documents, the issuers, senders or notifiers must make records thereon clearly stating reasons therefor, with certification by population group leaders, commune/ward/district township People’s Committees or police offices of their refusal to receive the procedural documents.
Article 153.- Procedures for direct issuance, sending or notification to agencies, organizations
Where the persons to whom the procedural documents are issued, sent or notified are agencies or organizations, the procedural documents must be delivered directly to their representatives at law or persons responsible for the receipt thereof, who must sign the receipts. Where the agencies or organizations to which the documents are issued, sent or notified have their representatives to receive the procedural documents, such persons shall sign for the receipt thereof. The date of signing for receipt shall be regarded as the date of issuance, sending or notification.
Article 154.– Procedures for public posting
1. The public posting of procedural documents shall be effected only when the whereabouts of the persons to whom the procedural documents are issued, sent or notified are not known or when the direct issuance, sending or notification cannot be conducted.
2. The public posting of procedural documents shall be conducted by courts directly or by the commune-level People’s Committees under courts’ authorization, of the localities where the persons to whom the procedural documents are issued, sent or notified reside or reside last according to the following procedures:
a) Posting the originals of the procedural documents at the offices of the courts or the commune-level People’s Committees of the localities where the persons to whom the documents are issued, sent or notified reside or reside last;
b) Posting the copies thereof at the places of residence or last residence of such persons to whom the documents are issued, sent or notified;
c) Making records on the public-posting procedures, clearly stating the date of posting.
3. The duration for public posting of procedural documents shall be fifteen days as from the date of posting.
Article 155.- Procedures for announcement on the mass media
1. The announcement on the mass media shall be effected only when it is so provided for by law or when there are grounds to believe that the public posting does not guarantee that the persons to whom the procedural documents are issued, sent or notified get the information on such documents.
The announcement on the mass media can be effected if so requested by the other involved parties. The fees for announcement on the mass media shall be borne by the announcement requesters.
2. Announcement on the mass media shall be published on central dailies for three consecutive issues, and broadcast on the central radio or television station three times for three consecutive days.
Article 156.- Notification of results of issuance, sending or notification of procedural documents
Where the persons that issue, send or notify the procedural documents are neither courts nor procedural document-issuing agencies, nor their officials, such persons must notify the results of issuance, sending or notification of procedural documents to the courts or the agencies issuing such procedural documents.
Chapter XI
PROCEDURAL TIME LIMITS
Article 157.- Procedural time limits
1. The procedural time limit is a period of time which is determined from this point of time to another point of time for the procedure-conducting persons, procedure participants or relevant individuals, agencies or organizations to perform procedural acts prescribed by this Code.
2. The procedural time limit can be determined in hour, day, week, month, year or an event which may occur.
Article 158.- Application of the Civil Code’s provisions on time limits
The method of calculating the procedural time limits, the provisions on procedural time limits, the starting time and the ending time of the procedural time limits in this Code shall comply with the corresponding provisions of the Civil Code.
Article 159.- The statute of limitations for lawsuits, the statute of limitations for requests
1. The statute of limitations for lawsuits is the time limit during which subjects have the right to initiate lawsuits to request the courts to settle civil cases in order to protect their legitimate rights and interests, which have been, infringed upon; if that time limit expires, they will lose their right to initiate lawsuits unless otherwise provided for by law.
2. The statute of limitations for requests is the time limit during which subjects have the right to request the courts to settle civil matters in order to protect the legitimate rights and interests of individuals, agencies or organizations; the public interests and/or the State’s interests if that time limit expires, they shall lose the right to request, unless otherwise provided for by law.
3. Where the law does not otherwise prescribe the statute of limitations for lawsuits or for requests, those time limits are stipulated as follows:
a) The statute of limitations for initiating a lawsuit to request the court to settle a civil case is two years as from the date the legitimate rights and interests of individuals, agencies or organizations, public interests or the State’s interests are infringed upon;
b) The statue of limitations for requesting the court to settle a civil matter is one year as from the date the right to request arises.
Article 160.- Application of the Civil Code’s provisions on statute of limitations
The Civil Code’s provisions on statute of limitations shall apply in civil procedures.
Part Two

PROCEDURES FOR SETTLING CASES AT FIRST-INSTANCE COURTS

Chapter XII

INSTITUTION AND ACCEPTANCE OF CASES

Article 161.- Right to institute cases
Individuals, agencies and organizations are entitled to institute cases by themselves or through their lawful representatives (hereinafter referred collectively to as the litigators) at competent courts to request the protection of their legitimate rights and interests.
Article 162.- Right to institute civil cases to protect legitimate rights and interests of other persons, public interests and/or the State’s interests
1. The population, family and children agencies and the Women’s Union shall, within the scope of their tasks and powers, have the right to institute marriage-and family-related cases if it is so stipulated by the Law on Marriage and Family.
2. Superior Trade Unions of the grassroots Trade Unions shall have the right to institute labor cases where it is necessary to protect the legitimate rights and interests of the labor collective as prescribed by law.
3. Agencies and organizations shall, within the scope of their respective tasks and powers, have the right to institute civil cases to request courts to protect the public interests and/or the State’s interests in the domains under their respective charge.
Article 163.- Scope of initiation of lawsuits
1. An individual, agency or organization may initiate a lawsuit against another or many other individuals, agencies or organizations regarding one legal relation or many interrelated legal relations for settlement in the same case.
2. Many individuals, agencies or organizations may jointly initiate a lawsuit against another individual, agency or organization regarding one legal relation or many interrelated legal relations for settlement in the same case.
3. Competent individuals, agencies or organizations defined by this Code may initiate lawsuits against another individual, agency or organization or many other individuals, agencies or organizations regarding one legal relation or many interrelated legal relations for settlement in the same case.
Article 164.– Form and contents of a lawsuit petition
1. Individuals, agencies and organizations initiating lawsuits must prepare their petitions.
2. A lawsuit petition must include the following principal contents:
a) Date of its making;
b) Name of the court receiving the lawsuit petition;
c) Name and address of the litigator;
d) Name and address of the person with his/her rights and interests to be protected;
e) Name and address of the person who is sued;
f) Name(s) and address(es) of persons(s) with related rights and obligations, if any;
g) Specific matters requested to be settled by the court against the defendant, the persons(s) with related rights and obligations;
h) Names and addresses of witnesses, if any;
i) Documents and evidences to prove that the lawsuit petition is well-grounded and lawful;
j) Other information which the litigator deems necessary for the resolution of the case;
k) The lawsuit petition must be signed or fingerprinted by the individual being the litigator; or signed or stamped by the lawful representative of the agency or organization being the litigator.
Article 165.- Documents and/or evidences accompanying lawsuit petitions
The litigators must send together with their lawsuit petitions, documents and/or evidences to prove that their claims are well-grounded and lawful.
Article 166.- Submission of lawsuit petitions to courts
1. Persons who institute cases shall forward their lawsuit petitions and the accompanying documents and/or evidences to courts competent to settle their cases by the following modes:
a) Direct submission at courts;
b) Sending them to courts by post.
2. The date of initiating a lawsuit shall be the date on which the lawsuit petition is filed at court or the postmarked date of sending the petition.
Article 167.- Procedures for receiving lawsuit petitions
Courts must receive lawsuit petitions lodged by litigators directly or via post and must record them in the petition registers. Within five working days as from the date of receiving the petitions, the courts must consider them and issue one of the following decisions:
1. To proceed with the procedures to accept the cases if they fall within their jurisdiction;
2. To transfer the lawsuit petitions to competent courts and notify the litigators thereof if the cases fall under other courts’ jurisdiction;
3. To return the lawsuit petitions to the litigators if such matters do not fall under the court’s jurisdiction.
Article 168.- Returning lawsuit petitions
1. The courts shall return the lawsuit petitions in the following cases:
a) The statute of limitations for lawsuit has expired;
b) The petitioners have no right to initiate a lawsuit or do not have full civil procedure act capacity;
c) The matters have been resolved by effective judgments or decisions of courts or legally binding decisions of competent State agencies, except for cases where the courts reject the applications for divorce, for change in child adoption, change of alimony levels or damage compensation levels, or applications for the reclaim of leased or lent properties or houses leased, lent or offered for other people’s free-of-charge stay, which have not been recognized by courts due to the lack of lawsuit conditions;
d) The notification time limit prescribed in Clause 2, Article 171 of this Code has expired while litigators fail to come to courts to carry out procedures for accepting the lawsuits, except for cases where there are plausible reasons;
e) There are not sufficient conditions to initiate lawsuits;
f) The cases do not fall under the courts’ jurisdiction.
2. When returning lawsuit petitions, courts shall make written documents enclosed therewith, clearly stating the reasons therefor.
Article 169.- Request for amendment and/or supplementation of lawsuit petitions
1. In cases where a lawsuit petition does not fully contain the details prescribed in Clause 2, Article 164 of this Code, the court shall notify such to the litigator for amendment and/or supplementation within a time limit set by the court, which, however, must not exceed thirty days; for special cases, the court may extend that time limit but for not more than fifteen days.
2. In cases where the litigators have amended and/or supplemented their lawsuit petitions strictly according to the provisions of Clause 2, Article 164 of this Code, the courts shall continue processing the cases; if they fail to amend and/or supplement their lawsuit petitions as requested by courts, the courts shall return the petitions as well as documents and evidences to the litigators.
Article 170.- Lodging and settling complaints about the return of lawsuit petitions
1. Within three working days as from the date of receiving the lawsuit petitions and accompanying documents as well as evidences, which are returned by courts, the litigators may file their complaints to the chief judges of the courts which have returned the lawsuit petitions.
2. Within three working days as from the date of receiving the complaints about the return of lawsuit petitions, the courts’ chief judges must issue one of the following decisions:
a) To uphold the return of the lawsuit petitions;
b) To receive back the lawsuit petitions and accompanying documents as well as evidences in order to process the cases.
Article 171.- Accepting cases
1. After receiving lawsuit petitions and accompanying documents and/or evidences, if deeming that the cases fall within their jurisdiction, the courts shall immediately notify the litigators thereof in writing so that they may come to courts for carrying out procedures to advance the court fees in cases where they are liable thereto.
2. The courts shall estimate the court fee advance amounts, write them down on the notices and hand them to the litigators for payment of court fee advances. Within fifteen days as from the date of receiving the courts’ notices on payment of court fee advances, the litigators must pay such advances.
3. The courts shall accept the cases after the litigators submit to the courts the court fee advance payment receipts.
4. In cases where the litigators are exempt from, or not required to pay, court fee advances or court fees, the courts must accept the cases upon receiving the lawsuit petitions and accompanying documents and/or evidences.
Article 172.- Assigning judges to settle cases
1. Within three working days as from the date a case is accepted, the court’s chief judge shall assign a judge to resolve the case.
2. In the course of settling the case, if the assigned judge cannot continue with the assigned task, the chief judge of the court shall assign another judge to continue that work; in cases where the trial is being underway without the alternative judge, the case must be retried from the beginning.
Article 173.- Tasks and powers of judges when preparing case files
1. To notify the acceptance of the cases.
2. To request the involved parties to submit documents and evidences to courts.
3. To apply of one or several measures to collect evidences according to the provisions of Clause 2, Article 85 of this Code.
Article 174.- Notice on acceptance of cases
1. Within three working days as from the date of receiving the cases, the courts must send written notices to defendants, individuals, agencies, and organizations with rights and obligations related to the settlement of the cases, to the procuracies of the same level on their acceptances of the cases.
2. Such a written notice must contain the following principal details:
a) Date on which the notice is made;
b) Name and address of the court accepting the case;
c) Name and address of the litigator;
d) Specific matters requested by the litigator for resolution by the court;
e) List of documents and evidences submitted together with the lawsuit petition by the litigator;
f) The time limit within which the notified person must submit to the court his/her written opinions on the litigator’s claims and the accompanying documents and/or evidences, if any.
g) Legal consequences of the notified person’s failure to submit to the court his/her written opinions on the claims in question.
Article 175.- Rights and obligations of the notified persons
1. Within fifteen days as from the date of receiving the notices, the notified persons must submit to courts their written opinions on the litigators’ claims and the accompanying documents and/or evidences, if any.
In cases where an extension of the time limit is needed, the notified persons must file their applications therefor to the courts, clearly stating the reasons; if the extension applications are well grounded, the courts must permit the extension, which, however, must not exceed fifteen days.
2. The notified persons may request the courts to let them read, take note or copy the lawsuit petitions and the accompanying documents as well as evidences.
Article 176.- Defendants’ right to make counter-claims
1. Together with their obligation to submit to courts their written opinions on the litigators’ claims, the defendants are entitled to file counter-claims against the plaintiffs.
2. The defendants’ counter-claims against the plaintiffs shall be accepted in one of the following cases:
a) The counter-claims are made to clear liability against the plaintiffs’ claims;
b) The counter-claims, if accepted, may exclude the partial or full acceptance of the plaintiffs’ claims;
c) There is an interrelation between the counter-claim and the plaintiff’s claim, and if these claims are settled in the same case, the resolution of such case shall be more accurate and quicker.
Article 177.- Right of persons with related rights and obligations to make independent claims
In cases where the persons with related rights and obligations do not participate in the procedures on the side of the plaintiff or the defendant, they shall be entitled to make independent claims when the following conditions are met:
1. The resolution of the case is related to their rights and obligations;
2. Their independent claims are related to the case being settled;
3. If their independent claims are settled in the same case, the resolution of such case shall be more accurate and quicker.
Article 178.- Procedures for making counter-claims or independent claims
The procedures for making counter-claims or independent claims shall comply with this Code’s provisions on procedures for initiating lawsuits by plaintiffs.
Chapter XIII

CONCILIATION AND TRIAL PREPARATION

Article 179.- Time limit for trial preparation
1. The time limits for preparation for trial of cases of various types are specified as follows:
a) For the cases prescribed in Articles 25 and 27 of this Code, the time limit shall be four months counting from the date of acceptance of the cases;
b) For the cases prescribed in Articles 29 and 31 of this Code, the time limit shall be two months counting from the date of acceptance of the cases.
For complicated cases, or when due to objective obstacles, the courts’ chief judges may decide to extend the trial preparation time limits but for not more than two months for cases prescribed at Point a and one month for cases prescribed at Point b, Clause 1 of this Article.
2. Within the trial preparation time limits prescribed in Clause 1 of this Article, the courts shall, on a case-by-case basis, issue one of the following decisions:
a) To recognize the agreement between the involved parties;
b) To suspend the resolution of the case;
c) To stop the resolution of the case;
d) To bring the case to trial.
3. Within one month as from the date of issuing the decision to bring the case to trial, the court must open a trial session. In case of plausible reasons, this time limit shall be two months.
Article 180.- Principle for conducting conciliation
1. The courts must, during the period of preparation for the first-instance trial of cases, carry out conciliations for the involved parties to reach agreement on the resolution of the cases, except cases which must not be conciliated or cannot be conciliated as stipulated in Articles 181 and 182 of this Code.
2. The conciliation must be conducted on the following principles:
a) Respect for the voluntary agreement of the involved parties, non-use of force or non-threat to use force to compel the involved parties to reach agreements against their will.
b) The contents of agreements between the involved parties must not contravene law and social ethics.
Article 181.- Civil cases which must not be conciliated
1. Claims for compensation for damage caused to State assets.
2. Civil cases arising from transactions which are contrary to law or social ethics.
Article 182.– Civil cases which cannot be conciliated
1. The defendants are intentionally absent though having been duly summoned twice by courts.
2. The involved parties can not take part in the conciliation for plausible reasons.
3. The involved parties being wives or husbands in divorce cases, who have lost their civil act capacity.
Article 183.- Notices on conciliation sessions
Before conducting conciliation sessions, the courts must notify the involved parties or their lawful representatives of the time and venue of the conciliation sessions as well as issues to be conciliated.
Article 184.- Participants in a conciliation session
1. The judge who presides over the conciliation session.
2. The court clerk who records the minutes of the conciliation session.
3. The involved parties or their lawful representatives.
In a case with many involved parties, where one of them is absent from the conciliation meeting, but the present parties agree to proceed with the conciliation and such conciliation shall not affect the rights and obligations of the absent party, the judge shall conduct the conciliation among the present parties. If the involved parties request the postponement of the conciliation meeting so that all involved parties can be present, the judge must postpone the conciliation session.
1. The interpreter, if involved parties do not know Vietnamese.
Article 185.- Conciliation contents
When conducting conciliations, the judges shall brief the involved parties on relevant law provisions on settlement of the cases so that they relate them to their rights and obligations, and analyze the legal consequences of successful conciliation so that they voluntarily reach agreements on the resolution of the cases.
Article 186.- Minutes of conciliation
1. The conciliations shall be recorded by court clerks in minutes. The minutes of conciliation must contain the following principal details:
a) Date on which the conciliation session is held;
b) Venue of the conciliation session;
c) Participants in the conciliation session;
d) Opinions of the involved parties or their lawful representatives;
e) Contents which have been or have not been agreed upon by the involved parties.
2. A minutes of conciliation must be fully affixed with signatures or fingerprints of the parties present at the conciliation session, signature of the court clerk recording the minutes, and signature of the judge presiding the conciliation session.
When the involved parties have reached mutual agreements on issues to be settled in civil cases, the courts must make records of the successful conciliation. Such records must be immediately sent to the parties participating in the conciliation.
Article 187.- Issuing decisions to recognize the agreements of the involved parties
1. Upon the expiry of the seven-day time limit after making the records on successful conciliation, if no parties change their opinions on such agreement, the judge who presides over the conciliation session or another judge who has been assigned by the court’s chief judge shall issue a decision recognizing the agreement of the involved parties.
Within five working days after the issuance of the decision to recognize the agreement of the involved parties, the court must send the decision to the involved parties and the procuracy of the same level.
2. The judge shall only issue a decision to recognize the agreement of the involved parties if they have reached an agreement on the resolution of the whole case.
3. In the cases stipulated in Clause 3 of Article 184 of this Code, where the present parties have reached agreement on the settlement of their case, such agreement shall be valid only for the present persons and shall be recognized by the judge in a decision if it does not affect the rights and obligations of the absent parties. In cases where such agreement affects the rights and obligations of the absent parties, it shall be valid and recognized by the judge in a decision only if it is accepted in writing by the parties that are absent from the conciliation session.
Article 188.- Effect of decisions to recognize the involved parties’ agreements
1. The decisions to recognize the involved parties’ agreements shall take effect immediately after they are issued and neither appealed nor protested against according to the appellate procedures.
2. The decisions to recognize the involved parties’ agreements may be protested against according to the cassation procedures only if there are grounds to believe that such agreements were reached as a result of mistakes, deceptions, intimidation or they contravene law or social ethics.
Article 189.- Suspension of the resolution of civil cases
1. The involved parties being individuals have died or being organizations have been merged, divided, separated or dissolved without any individuals, agencies or organizations inheriting their procedural rights and obligations.
2. One involved party being an individual has lost his/her civil act capacity while his/her representative at law has not been determined yet.
3. The legal representative of the involved party terminates without a replacement.
4. The results of resolution of another related case or matter, which, as required by law, must be settled by other agencies or organizations before the cases are resolved, need to be waited for.
5. Other circumstances as prescribed by law.
Article 190.- Consequences of the suspension of resolution of civil cases
1. The court must not delete the names of suspended civil cases from the case acceptance books but only note down the number and date of the decisions to suspend the resolution of such civil cases in the case acceptance books.
2. The court fee advances and court fees paid by the involved parties shall be deposited at the State Treasury and handled when the courts proceed with the resolution of the civil cases.
3. Decisions to suspend the resolution of the civil cases may be appealed or protested against under appellate procedures.
Article 191.- Resuming the resolution of suspended civil cases
The courts shall resume the resolution of suspended civil cases only when the suspension reasons no longer exist.
Article 192.- Stopping the resolution of civil cases
1. After accepting cases which fall within their respective jurisdiction, the courts shall issue decisions to stop the resolution of the civil cases in the following circumstances:
a) The plaintiffs or defendants being individuals have died while their rights and obligations are not inherited;
b) Agencies or organizations have been dissolved or declared bankrupt without any individuals, agencies or organizations inheriting their procedural rights and obligations;
c) The litigators withdraw their lawsuit petitions with the courts’ approval or the litigators have no right to initiate lawsuits;
d) Agencies or organizations withdraw their written lawsuits in cases where there are no plaintiffs or where the plaintiffs request not to continue resolving the cases;
e) The involved parties have reached agreements among themselves and do not request the courts to continue resolving the case;
f) The plaintiffs are still absent although they have been duly summoned twice;
g) The courts have issued decisions to open bankruptcy procedures for enterprises or cooperatives being a party to the cases and the resolution of such cases is related to the obligations and property of such enterprises or cooperatives;
h) Other circumstances prescribed by law.
2. The courts shall issue decisions to stop the resolution of civil cases, delete names of such cases from the case acceptance books and return the lawsuit petitions and accompanying documents as well as evidences to the involved parties if the cases fall into one of the circumstances under which the lawsuit petitions must be returned as provided for in Article 168 of this Code.
Article 193.- Consequences of the stoppage of resolution of civil cases
1. When the decisions to stop the resolution of civil cases are issued, the involved parties shall not be entitled to initiate lawsuits to request the courts to re-settle such civil cases if the institution of the subsequent cases does not bring in any difference from the previous cases in terms of the plaintiff, defendant and the disputed legal relations, except for cases prescribed at Points c, e and f of Clause 1, Article 192 of this Code and cases otherwise provided for by law.
2. In cases where the courts issue decisions to stop resolving civil cases as provided for in Clause 1, Article 192 of this Code, the court fee advance money paid by the involved parties shall be confiscated by the State for public fund.
3. In cases where the court issue decisions to stop resolving civil cases as provided for in Clause 2, Article 192 of this Code, the court fee advance money paid by the involved parties shall be refunded to the payers.
4. The decisions to stop resolving civil cases may be appealed or protested against under appellate procedures.
Article 194.- Competence to issue decisions to suspend or stop the resolution of civil cases
1. The judges who are assigned to resolve civil cases shall be competent to issue decisions to suspend or stop the resolution of such civil cases.
2. Within five working days after the issuance of decisions to suspend or stop the resolution of civil cases, the courts must send such decisions to the involved parties and the procuracies of the same level.
Article 195.- Decisions to bring cases to trial
1. A decision to bring a case to trial shall contain the following principal details:
a) Date of issue of the decision;
b) Name of the court issuing that decision;
c) The case to be brought to trial;
d) Names and addresses of the plaintiff, the defendant or other persons who initiate the lawsuit to request the court to settle the case, persons with related rights and obligations;
e) Full names of the judge, people’s jurors, court clerk and full names of the alternate judge or people’s jurors, if any;
f) Full name of the procurator who takes part in the court session, if any;
g) Time, date and venue of the trial session;
h) Public trial or closed trial;
i) Full names of persons who are summoned to the court session.
2. Decisions to bring the cases to trial must be sent to the involved parties and the procuracies of the same level immediately after the issuance thereof.
Where the procuracies participate in court sessions as provided for in Clause 2, Article 21 of this Code, the courts must send the case files to the procuracies of the same level. Within fifteen days after receiving the dossiers, the procuracies must study then return the files to the courts.
Chapter XIV

FIRST-INSTANCE COURT SESSIONS

Section 1. GENERAL PROVISIONS ON FIRST-INSTANCE COURT SESSIONS
Article 196.- General requirements for first-instance court sessions
The first-instance court sessions must be conducted on the right times and at the right places inscribed in the decisions to bring the cases to trial or in the notices on reopening the court sessions in cases where the court sessions have been postponed.
Article 197.- Direct, oral and continuous hearing
1. The courts must directly ascertain details and facts of the cases by questioning and listening to the presentations of the plaintiffs, the defendants, persons with related rights and obligations, lawful representatives, defense counsels of the legitimate rights and interests of the involved parties and other participants in the procedures; examine and verify collected documents and evidences; listen to the opinions of the procuracies on the resolution of the cases if the procurators participate in the court sessions. Judgments shall only be rendered on the basis of the results of arguments and inquiries at the court sessions as well as the evidences which have been examined and verified at the court sessions.
2. The hearing shall be conducted orally and continuously, excluding breaks. Members of the Trial Panels shall hear the cases from the beginning to the end, except for the circumstances provided for in Clause 1, Article 198 of this Code.
In special circumstances prescribed by this Code, the hearing may be temporarily ceased for no more than five working days. Upon the expiry of that cessation time limit, the trial shall resume.
Article 198.- Replacement of Trial Panel members in special cases
1. Where judges or people’s jurors cannot continue to participate in the trial, the trial may be continued if there are alternate judges or people’s jurors if they are present at the court sessions from the beginning.
In cases where a Trial Panel consists of two judges and the presiding judge cannot continue to participate in the trial, the other judge being member of the Trial Panel shall act as the presiding judge of the court session and the alternate judge shall be added to be member of the Trial Panel.
2. In cases where there is no alternate judge or people’s juror to replace a member of the Trial Panel, or where the presiding judge of the court session must be replaced while there is no judge for replacement as provided for in Clause 1 of this Article, the case shall be retried from the beginning.
Article 199.- Presence of plaintiffs at court sessions
1. The plaintiffs must be present at court sessions under court subpoena; if they are absent for the first time for plausible reasons, the court sessions must be postponed.
2. If a plaintiff has been duly summoned for the second time but is still absent, he/she/it shall be regarded as having waived his/her/its lawsuit and the court shall issue a decision to stop the resolution of the case. In cases where the court issues a decision to stop the resolution of the case, the plaintiff may initiate a lawsuit again provided that the statute of limitations for such initiation of lawsuit has not yet expired.
Article 200.- Presence of defendants at court sessions
1. The defendants must be present at court sessions under court subpoena; if they are absent for the first time for plausible reasons, the court sessions must be postponed.
2. If a defendant has been duly summoned for the second time but is still absent, the court shall continue to hear the case in his/her absence.
Article 201.- Presence of persons with related rights and obligations
1. Persons with related rights and obligations must be present at court sessions under court subpoena; if they are absent for the first time for plausible reasons, the court sessions must be postponed.
2. If the persons with related rights and obligations have been duly summoned for the second time but are still absent, the courts shall continue to hear the cases in their absence.
3. If the persons with related rights and obligations who make independent claims and have been duly summoned for the second time but are still absent, they shall be regarded as having waived their independent claims, and the courts shall issue decisions to stop the resolution of the cases in respect of the independent claims of the persons with related rights and obligations if the plaintiff and the defendant so agrees. In cases where the courts issue decisions to stop resolving the cases in respect of the independent claims, the persons with related rights and obligations shall be entitled to initiate lawsuits again in respect of their independent claims provided that the statute of limitations for such initiation of lawsuits has not yet expired.
Article 202.- Trial in absence of involved parties from court sessions
The courts shall proceed with the case hearing in the following circumstances:
1. The plaintiff, the defendant or the persons with related interests and obligations, who are absent from court sessions, file their applications to request the courts to conduct the trial in their absence;
2. The plaintiff, the defendant or the persons with related interests and obligations, who are absent from court sessions, have their lawful representatives to attend the court sessions;
3. The cases prescribed in Clause 2, Article 200 and Clause 2, Article 201 of this Code.
Article 203.- Presence of defense counsels of legitimate rights and interests of the involved parties
The defense counsels of legitimate rights and interests of the involved parties must attend court sessions under court subpoena. If they are absent for the first time for plausible reasons, the court sessions must be postponed. If the persons defending legitimate rights and interests of the involved parties are still absent after being summoned for the second time, the courts shall proceed with the case hearing. In this case, the involved parties shall themselves defend their legitimate rights and interests.
Article 204.- Presence of witnesses
1. Witnesses shall be obliged to attend court sessions under court subpoena to clarify details of the cases. Where the witnesses are absent but have earlier given their testimonies in person or sent their testimonies to courts, the judges presiding over the court sessions shall make public such testimonies.
2. Where witnesses are absent, the Trial Panels may decide to postpone the court sessions or keep hearing the cases. Where the witnesses are absent from the court sessions without plausible reasons and their absence hinders the trial, they may be escorted to court sessions under decisions of the Trial Panels.
Article 205.- Presence of expert-witnesses
1. Expert-witnesses shall be obliged to attend court sessions under court subpoena to clarify issues relating to the expertise and expertising conclusions.
2. Where the expert-witnesses are absent, the Trial Panels shall decide to postpone the court sessions or keep hearing the cases.
Article 206.- Presence of interpreters
1. Interpreters shall be obliged to attend the court sessions under court subpoena.
2. Where the interpreters are absent without substitutes, the Trial Panels shall decide to postpone the court sessions, except for cases where the involved parties keep requesting to continue the trial.
Article 207.- Presence of procurators
1. The procurators assigned by the heads of the procuracies of the same level shall have the duty, to attend the court sessions.
2. Where the procurators are replaced at court sessions or cannot continue to participate in the trial sessions and the alternate procurators are available, the latter may attend the court sessions for continued trial of the cases if they are present at the court session from the beginning.
In cases where alternate procurators are not available for replacement, the Trial Panels shall decide to postpone the court sessions and promptly notify the heads of the procuracies of the same level thereof.
Article 208.- Time limit for postponing a court session and decision to postpone a court session
1. In cases where the trial panel decides to postpone the court session according to the provisions of Clause 2 of Article 51, Clause 2 of Article 72 and Articles 199, 200, 201, 203, 204, 205, 206, 207 and 215, and Clause 4 of Article 230, of this Code, the time limit for postponement of a first-instance court session shall not exceed thirty days after the issue of the decision to postpone the court session.
2. A decision to postpone a court session must contain the following principal details:
a) Date of its issuance;
b) Name of the court and full names of persons conducting the procedures;
c) The case to be brought to trial;
d) Reasons for the postponement of the court session;
f) Time and venue for re-opening of the court session.
3. The decisions to postpone the court sessions must be signed by the judges presiding over the court sessions on behalf of the trial panels and be publicly notified to procedure participants. For absent persons, the courts shall immediately send the decisions to them and concurrently to the procuracies of the same level.
4. In cases where the courts cannot re-open the court sessions on the right time and at the right places inscribed in the decisions to postpone the courts sessions, the courts must immediately notify the procuracies of the same level and procedure participants of the time and venues for re-opening the court sessions.
Article 209.- Internal rules of court sessions
1. People aged under16 years shall not be allowed to enter the court rooms, except where they are summoned by courts to attend the court sessions.
All people present in the court room must stand up as the Trial Panel enters the court room, respect the Trial Panel, maintain order and strictly follow the instructions of the presiding judge of the court session.
Only those persons who are permitted by the trial panel can raise questions, reply or give statement. The persons who question, reply or give statement must stand up, except where they are permitted by the presiding judges of the court sessions to sit while making questions, replies or statements for health reasons.
2. The Chairman of the Supreme People’s Court shall base him/herself on the provisions of Clause 1 of this Article to issue the internal rules of court sessions.
Article 210.- Procedures for rendering court judgments or decisions at court sessions
1. Judgments must be discussed and adopted by the Trial Panels in the deliberation rooms.
2. Decisions to replace the procedure-conducting persons, expert-witnesses, interpreters, to transfer the cases, to suspend or stop the resolution of cases, or to postpone court sessions must be discussed and adopted at the deliberation rooms and made in writing.
3. Decisions on other matters shall be discussed and adopted by the Trial Panels at the court rooms and need not to be made in writing but must be recorded in the minutes of the court sessions.
Article 211.- Minutes of court sessions
1. Minutes of a court session must be fully inscribed with the following details:
a) Main contents of the decision to bring the case to trial as stipulated in Clause 1 of Article 195 of this Code;
b) All developments at the court session from the beginning to the end;
c) Questions, answers and statements given at the court session.
2. Apart from recording the minutes of court sessions, the audio-recording and/or video-recording of the developments of the court session can be made only when it is consented by the Trial Panels.
3. At the end of a court session, the presiding judge of the court session must examine the minutes and co-sign on the minutes with the court clerk.
4. The procurator and procedure participants shall be entitled to read the minutes of the court session immediately after the end of the court session and request the inclusion of amendments or additions into the minutes and sign for certification.
Article 212.- Preparing for the opening of a court session
Before the opening of a court session, the court clerk must perform the following jobs:
1. Briefing on the internal rules of the court session;
2. Examining and identifying the absence or presence of the persons participating in the court sessions under the court’s subpoenas or notices; if any person is absent, the reasons therefor must be clarified;
3. Maintaining order in the court room;
4. Requesting all people present in the court room to stand up when the Trial Panel enters the court room.
Section 2. PROCEDURES FOR COMMENCING A COURT SESSION
Article 213.- Opening a court session
1. The presiding judge of the court session shall open the court session and read out the decision to bring the case to trial.
2. The court clerk shall then report to the Trial Panel on the presence and absence of the persons participating in the court session under the court’s subpoenas or notices and the reasons for their absence.
3. The presiding judge shall cross-check the presence of the participants in the court session under the court’s subpoenas or notices and examine identities of the involved parties.
4. The presiding judge shall explain the rights and obligations of the involved parties and other procedure participants.
5. The presiding judge shall introduce full names of the procedure-conducting persons, expert-witnesses, interpreters.
6. The presiding judge shall ask persons who are entitled to request the replacement of procedure conductors, expert-witnesses or interpreters to see if they wish to replace anyone.
Article 214.- Handling requests for replacement of procedure conductors, expert-witnesses and/or interpreters
In cases where certain persons request the replacement of procedure conductors, expert-witnesses and/or interpreters, the trial panels must consider and decide in accordance with procedures stipulated in this Code and may accept or not accept such request. In case of non-acceptance, the reasons therefor must be clearly stated.
Article 215.- Considering and deciding on the postponement of court sessions upon someone’s absence
When any procedure participants are absent from court sessions and they do not fall into the cases where the courts must postpone the court sessions, the presiding judges must ask to see if there is any one requesting the postponement of the court sessions or not. If there is, the Trial Panels shall consider and decide thereon according to the procedures stipulated in this Code and may accept or not accept such request. In case of non-acceptance, the reasons therefor must be clearly stated.
Article 216.- Securing the objectivity of witnesses
1. Before witnesses are asked about matters they know, which are related to the resolution of the cases, the presiding judges may decide to take necessary measures so that witnesses cannot hear each other’s testimonies nor contact the relevant persons.
2. In cases where the testimonies of the involved parties and the witnesses are interrelated, the presiding judges may decide to isolate the involved parties from the witnesses before the witnesses are questioned.
Section 3. PROCEDURES FOR INQUIRIES AT COURT SESSIONS
Article 217.- Inquiring the involved parties about change, supplementation or withdrawal of their claims
The inquiring process shall start with the presiding judge’s inquiry of the involved parties about the following issues:
1. Inquiring the plaintiffs to see whether or not they wish to change, supplement or withdraw part or whole of their lawsuit petitions;
2. Inquiring the defendants to see whether or not they wish to change, supplement or withdraw part or whole of their counter-claims;
3. Inquiring the persons with related rights and obligations who make independent claims to see whether or not they wish to change, supplement or withdraw part or whole of their independent claims.
Article 218.- Considering the change, supplementation or withdrawal of claims
1. The trial panels shall accept the change and/or supplementation of the involved parties’ claims, if such change or supplementation does not fall beyond the scope of their original lawsuits, counter-claims or independent claims.
2. Where an involved party voluntarily withdraws part or whole of his/her claim, the Trial Panel may accept such request and stop the trial regarding the withdrawn part or whole of the claim.
Article 219.- Changing the procedural status
1. Where the plaintiff withdraws the entire lawsuit claim, but the defendant still maintains his/her counterclaims, the defendant shall become the plaintiff and the plaintiff shall become the dependant.
2. Where the plaintiff withdraws the entire lawsuit claim and the defendant withdraws the entire counterclaims, but persons with related rights and obligations still maintain their independent claims, the persons with related rights and obligations shall become plaintiffs while the persons who are obliged under the independent claims shall become defendants.
Article 220.- Recognizing the agreements of involved parties
1. The presiding judge shall ask whether the involved parties can reach mutual agreement on the resolution of the cases or not. In cases where they reach agreements on the resolution of the cases and their agreements are voluntary, not contrary to law or social ethics, the trial panels shall issue decisions to recognize their agreements on the resolution of the cases.
2. The court decisions recognizing the involved parties’ agreements on the resolution of the cases shall take legal effect.
Article 221.- Listening to the involved parties’ presentations
1. In cases where certain involved parties still maintain their claims and cannot reach agreements on the resolution of the cases, the Trial Panels shall commence the hearing the cases by listening to presentations of the involved parties in the following order:
a) The defense counsels of the plaintiff’s legitimate rights and interests shall present the plaintiff’s claims and evidences to prove that their claims are well-grounded and lawful. The plaintiff shall be entitled to give additional opinions.
In cases where agencies or organization institute the cases, their representatives shall present the lawsuit claims and evidences to prove that their lawsuit claims are well-grounded and lawful.
b) The defense counsels of the defendant’s legitimate rights and interests shall present the defendant’s opinions on the plaintiff’s claims; the defendant’s counter-claims and proposals as well as evidences to prove that such proposals are well grounded and lawful. The defendant shall be entitled to give additional opinions.
c) The defense counsels of the legitimate rights and interests of persons with related rights and obligations shall present the latter’s opinions on the claims and proposals of the plaintiff and the defendant; independent claims and proposals of the persons with related rights and obligations as well as evidences to prove that such proposals are well grounded and lawful. The persons with related rights and obligations shall be entitled to give additional opinions.
2. In cases where the plaintiff, the defendant or the persons with related rights and obligations have no defense counsels of their legitimate rights and interests, they shall present by themselves their claims and proposals as well as evidences to prove that such claims and proposals are well grounded and lawful.
3. At the court sessions, the involved parties and defense counsels of their legitimate rights and interest are entitled to supplement evidences to prove their respective claims and proposals.
Article 222.- Sequence of inquiry at court sessions
After listening to presentations by the involved parties, the inquiry of each person about each matter shall be carried out in the order that the presiding judge shall inquire first, then the people’s jurors; the defense counsels of legitimate rights and interests of the involved parties; then the involved parties, and other procedure participants. Where procurators participate in count sessions, their inquiries shall follow the involved parties’ inquiries.
Article 223.- Inquiring plaintiffs
1. In cases where there are more than one plaintiff, they shall be inquired and separately one by one.
2. The plaintiffs shall be inquired only about matters presented by themselves or by the defense counsels of their legitimate rights and interests which are unclear, inconsistent or contradictory to their previous testimonies, or contradictory to the presentations of the defendant, the persons with related rights and obligations and/or the defense counsels of their legitimate rights and interests.
3. Plaintiffs may themselves reply or the defense counsels of their legitimate rights and interests may reply on their behalf, then the plaintiffs may give additional answers.
Article 224.- Inquiring defendants
1. In cases where there are more than one defendant, each defendant shall be inquired separately.
2. The defendants shall only be inquired about matters which have been unclearly presented by themselves or the defense counsels of their legitimate rights and interests or have been inconsistent or contradictory to their previous testimonies, or contradictory to the claims of the plaintiffs or the persons with related rights and obligations and/or the defense counsels of their legitimate right and interests.
3. Defendants may answer questions by themselves or the defense counsels of their legitimate rights and interests answer on their behalf before the defendants give additional answers.
Article 225.- Inquiring persons with related rights and obligations
1. In cases where there are more than one person with related rights and obligations, each of them shall be inquired separately.
2. The persons with related rights and obligations shall only be inquired about matters which have been unclearly presented by themselves or by the defense counsels of their legitimate rights and interests or have been inconsistent or contradictory to their previous testimonies or contradictory to the claims of the plaintiffs or proposals of the defendants or the defense counsels of legitimate rights and interests of these persons.
3. Persons with related rights and obligations may answer questions by themselves or the defense counsels of their legitimate rights and interests answer on their behalf before they give additional answers.
Article 226.– Inquiring witnesses
1. In cases where there are more than one witness, each of them shall be inquired separately.
2. Before questioning witnesses, the presiding judges shall ask clearly about the relations between them and parties involved in the cases; if witnesses are minors, the presiding judges may request their parents, guardians or teachers to help in the inquiries.
3. The presiding judges shall request the witnesses to present details of the cases which they know. After the witnesses complete their presentations, they may only be further questioned about points which they have presented unclearly, incompletely or inconsistently or which have been contradictory to their previous testimonies, contradictory to the presentations of the involved parties and/or the defense counsels of the involved parties’ legitimate rights and interests.
4. After completing their presentations, the witnesses shall stay in the court rooms so that they may be further questioned.
5. In cases where it is necessary to secure the safety of the witnesses or their relatives, the Trial Panels may decide not to disclose information on their personal identities and must keep them from being seen by attendants to the court sessions.
Article 227.- Disclosing case documents
1. The Trial Panels shall make public case documents in the following cases:
a) Procedure participants are absent from court sessions but have given their testimonies during hearing preparation;
b) Testimonies given at court sessions by procedure participants are contradictory to their previous testimonies;
c) In other cases where the Trial Panels deem it necessary or where the procurators or procedure participants so request.
2. In special cases where it is necessary to keep State secrets, to preserve the nation’s fine customs and practices, to keep professional secrets, business secrets or private secrets at the requests of the involved parties, the trial panels shall not disclose documents included in the case files.
Article 228.- Hearing audio-tapes and/or discs, watching video tapes and/or discs
At the request of the procurators or the procedure participants or when deeming it necessary, the Trail Panels may arrange for the audio tapes and/or discs to be heard, and/or video tapes and/or discs to be screened at court sessions, except for the cases stipulated in Clause 2 of Article 227 of this Code.
Article 229.- Examining exhibits
Exhibits, photos or records certifying exhibits may be presented for examination at court sessions.
When necessary, the Trial Panels may go together with the involved parties for on-site examination of exhibits which can not be brought to court sessions.
Article 230.- Inquiring expert-witnesses
1. The presiding judges shall request the expert-witnesses to present their conclusions on matters they have been assigned to expertise. During their presentations, the expert-witnesses may give additional explanations on the expertising conclusions and the grounds to make such conclusions.
2. Procurators and procedure participants present at court sessions shall be entitled to give comments on the expertising conclusions, to ask about matters which are unclear or contradictory in the expertising conclusions or contradictory to other details of the cases.
3. In cases where the expert-witnesses are absent from court sessions, the presiding judges shall publicize the expertising conclusions.
4. If any procedure participants disagree with the expertising conclusions publicized at court sessions and request the expert-witnesses to make additional expertise or re-expertise, if deeming that the additional expertise or the re-expertise is necessary for the settlement of the cases the Trial Panels shall decide on the additional expertise or re-expertise; in this case, the Trial Panels shall decide to postpone the court sessions.
Article 231.- Concluding the inquiries at court sessions
When deeming that the case details have been fully examined, the presiding judges shall ask the procurators, the involved parties, the defense counsels of the legitimate rights and interests of the involved parties and other procedure participants whether they request to ask about any matters or not; in cases where someone has such request and he/she deems that such request is well grounded, the presiding judges shall decide to continue the inquiries.
Section 4. ARGUMENT AT COURT SESSIONS
Article 232.- Order for making arguments
1. At the end of the inquiring process, the Trial Panels shall move on to the arguments at court sessions. The order for making arguments shall be as follows:
a) The defense counsels of the plaintiffs’ legitimate rights and interests shall make their presentations. The plaintiffs may make additional comments. In cases where agencies or organizations initiate lawsuits, the representatives of such agencies or organizations shall present their opinions. The persons having their rights and interests protected may give additional comments;
b) Defense counsels of the defendants’ legitimate rights and interests shall make their presentations. The defendants may make additional comments;
c) Defense counsels of the legitimate rights and interests of persons with related rights and obligations shall make presentations. Persons with related rights and obligations may make additional comments.
2. In cases where the plaintiffs, the defendants or persons with related rights and obligations have no one to defend their legitimate rights and interests, they shall themselves make presentations during the arguments.
Article 233.- Presentations during arguments and responses
When making presentations on the assessment of evidences or expressing their views on the resolution of cases, persons participating in the arguments must base themselves on documents and evidences that have been collected, examined and verified at court sessions as well as results of the inquiring process at court sessions. They may respond to the opinions of others. The presiding judges must not limit the argument time but create conditions for persons participating in the arguments to fully express their opinions, but may interrupt ideas irrelevant to the cases.
Article 234.- Presentations of procurators
In cases where procurators attend court sessions, after the procedure participants present their arguments and responses, the presiding judges shall ask the procurators to express the procuracies’ views on the resolution of the cases.
Article 235.- Resuming inquiries
Through arguments, if deeming that details of the cases have not been considered, or have been considered insufficiently, or it is necessary to additionally examine evidences, the trial panels shall decide to resume the inquiring process. Once the inquiries end, the arguments must continue.
Section 5. DELIBERATION AND PRONOUNCEMENT OF JUDGMENTS
Article 236.- Deliberation
1. At the end of arguments, the trial panels enter the deliberation rooms to deliberate the cases.
2. Only members of the trial panels can participate in the deliberation. During the deliberation, the trial panel members must resolve all matters of the cases by way of majority voting on matter by matter. The people’s jurors shall vote first while the judges shall vote last. The minority may express their opinions in writing which shall be recorded in the case files.
3. Deliberation must be based only on documents and evidences which have been examined considered at court sessions, results of inquiries at court sessions and the full consideration of opinions of procedure participants and procurators.
4. Deliberation must be recorded in minutes specifying all opinions discussed and decisions of the trial panels. The deliberation records must be signed at the deliberation rooms by all members of the trail panels before the judgments are pronounced.
5. Where the cases involve many complicated circumstances and the deliberation requires a longer time, the trial panels may decide on the deliberation time limit which, however, shall not exceed five working days after the end of arguments at court sessions.
The trial panels must inform all persons present at court sessions and the absent procedure participants of the hours, date and place where the judgments shall be pronounced; if the trial pPanels have made the notification while some proceeding participants are absent, the trial panels shall still proceed with the pronouncement of judgments as provided for in Article 239 of this Code.
Article 237.- Resumption of inquiries and arguments
Through deliberation, if deeming that details of the cases have not been considered, the inquiries have yet been sufficient or evidences should be further examined, the trial panels may decide to resume the inquiries and arguments.
Article 238.- First-instance judgments
1. Courts shall render judgments in the name of the Socialist Republic of Vietnam.
2. A judgment shall contain an introduction, contents of the case and assessment of the court, and the court’s decision.
3. The introduction section of the judgment must clearly state the name of the first-instance court; the serial number and date of the case acceptance; the serial number of the judgment and the date of judgment pronouncement; full names of the members of the trial panel, the court clerk, the procurators, expert-witnesses and interpreter (if any); full names and addresses of the plaintiff, defendant, persons with related rights and obligations; agencies or organizations initiating the lawsuit; the lawful representatives, the defense counsels of the legitimate rights and interests of the involved parties; subject matter of the dispute; the serial number and date of the decision to bring the case to public trial or closed trial; time and place of trial.
4. The section of the judgment contents and court assessment must state the lawsuit claims of the plaintiff; the lawsuit of the agency or organization, the defendant’s counter-claim; independent claims of persons with related rights and obligations; assessment of the court; points, clauses and articles of the legal documents which the court used as grounds for the resolution of the case.
The court assessments must analyze grounds for acceptance or non-acceptance of the claims, proposals of the involved parties, the defense counsels of the legitimate rights and interests of the involved parties.
5. The court ruling section must clearly state the court decisions on each issue to be resolved in the case, on court fees and right to appeal against the judgment; in cases where there are decisions which must be executed immediately, such decisions must be clearly stated.
Article 239.- Pronouncing judgments
Upon pronouncement of a judgment, all people in the court room must rise up, except for special cases permitted by the presiding judge. The presiding judge or another member of the trial panel reads out the judgment and may, after reading the full text of the judgment, give further explanation of the judgment execution and the right to appeal.
In cases where any involved parties do not know Vietnamese, the interpreter must interprete the judgment in full into the language they know.
Article 240.- Amendment or supplementation of judgments
1. A judgment, once pronounced must not be amended or supplemented, except where obvious mistakes in spelling, in data due to confusion or miscalculation are detected. The amendment or supplementation must be immediately notified to persons having rights and/or obligations related thereto; and at the time to agencies, organizations initiating the lawsuits and procuracies of the same level
2. The judgment amendment or supplementation stipulated in Clause 1 of this Article must be made by judges in coordination with the people’s jurors being members of the trial panel. In cases where such judges no longer hold the judge’s position, the courts’ chief judges shall make such amendment or supplementation.
Article 241.- Supplying judgment extracts and judgments
1. Within three working days after the end of a court session, the involved parties, agencies or organizations initiating the lawsuits shall be supplied with judgment extracts by the court.
2. Within ten days as from the date of judgment pronouncement, the court shall hand over or send the judgment to the involved parties, agencies or organizations initiating the lawsuit and the procuracy of the same level.
Part Three

PROCEDURES FOR RESOLUTION OF CASES AT APPEAL COURTS

Chapter XV

NATURE OF APPELLATE TRIAL AND THE APPEAL OR PROTEST AGAINST JUDGMENTS, DECISIONS OF FIRST-INSTANCE COURTS

Article 242.- Nature of appellate trial
Appellate trial means the re-trial by the immediate superior court of a case with the first-instance court’s judgment or decision having not yet taken legal effect and being appealed or protested against.
Article 243.- Persons having the right to appeal
The involved parties or their representatives, agencies or organizations initiating lawsuits shall have the right to lodge their appeals against judgments or decisions of the first-instance courts to suspend or stop the resolution of cases in order to request the immediate superior courts to conduct re-trials according to the appellate procedures.
Article 244.- Application for an appeal
1. An application for an appeal must have the following principal contents:
a) Date on which the application is made;
b) Full name and address of the appellant;
c) The section of judgment or decision of the first-instance court, which has not yet taken legal effect and is appealed.
d) The reason(s) for appealing and the appellant’s claims.
e) Signature or fingerprint of the appellant.
2. The appeal application must be filed with the first-instance court which rendered the first-instance-judgment or decision being appealed against; where the appeal application is filed with the appeal court, the appeal court must transfer the application to the first-instance court for carrying out necessary procedures and sending the case file to the appeal court as provided for in Article 255 of this Code.
3. The appeal application must be accompanied with additional documents and/or evidences, if any, to prove that their appeals are well grounded and lawful.
Article 245.- Time limit for an appeal
1. The time limit for an appeal against the first-instance court’s judgment is fifteen days as from the date of judgment pronouncement; for the involved parties being absent from the court sessions, the time limit for an appeal shall be counted from the date the judgment is handed to them or publicly posted up.
2. The time limit for an appeal against the first-instance court’s decision on suspending or stopping the resolution of the case is seven days counting from the date the person who has the right to appeal receives such decision.
3. In cases where the appeal application is sent by post, the appeal date shall be calculated on the basis of the sending postmark date printed on the envelope.
Article 246.- Examination of appeal applications
1. After receiving the appeal applications, the first-instance courts must examine their validity as provided for in Clause 1, Article 244 of this Code.
2. In case of overdue appeals, the first-instance courts shall request the appellants to further explain the reasons therefor and produce documents and/or evidences, if any, to prove that the reasons for late submission of their appeal applications are plausible.
Where the appeal applications are made not in compliance with the provisions of Clause 1, Article 244 of this Code, the first-instance courts shall request the appellants to amend or supplement them.
Article 247.- Overdue appeals
1. Appeals that are not made within the time limit stipulated in Article 245 of this Code shall be the overdue appeals. After receiving overdue appeal applications, the first-instance courts must forward the applications and the appellants’ explanation of the reasons for late filing the appeals, documents and/or evidences, if any, to the appeal courts.
2. Within ten days after receiving the overdue appeals and the accompanying documents and/or evidences, the courts of appeal shall set up a Panel consisting of three judges to consider the overdue appeals. The Panel may issue decisions to accept or not to accept the overdue appeals and clearly state the reasons therefor in such decisions. The appeal courts must send their decisions to the late appellants and the first-instance courts. If the appeal courts accept the overdue appeals, the first-instance courts shall carry out procedures stipulated in this Code and forward the case files to the appeal courts.
Article 248.- Notification of payment of appeal court fee advance
1. After accepting the valid appeal applications the first-instance courts must notify the appellants thereof so that they pay the appeal court fee advances as required by law, if they do not fall cases of being exempt from, or having not to pay, the appeal court fee advances or appeal court fees.
2. Within ten days as from the date of receiving the courts’ notifications of payment of the appeal court fee advances, the appellants must pay the court fee advances and submit to the first-instance courts the receipts of the payment of court fee advances. If past this time limit the appellants fail to pay the appeal fee court advances, they shall be deemed to have given up their appeals, unless they have plausible reasons therefor.
Article 249.- Notice of appeal
1. After receiving the valid appeal applications, the first-instance courts must notify such in writing to the procuracies of the same level and the involved parties.
2. Persons who are notified of the appeals shall be entitled to send to the appellate courts documents expressing their opinions on the appealed matters. Such documents shall be included in the case files.
Article 250.- Protest by procuracies
The head of the procuracy of the same level or the immediate superior level shall be entitled to protest against the first-instance court’s judgments or decisions to suspend or stop the resolution of the cases in order to request the immediate superior court to directly settle the cases according to the appellate procedures.
Article 251.- Protest decisions of procuracies
1. The procuracies’ protest decisions must be made in writing and contain the following principal contents:
a) Issuing date and serial number of the protest decision;
b) Name of the procuracy that issues the protest decision;
c) Protested sections of the first-instance court’s judgments or decisions which have not yet taken legal effect.
d) Reason(s) for such protest and the procuracy’s claims.
e) Full name of the person signing the protest decision and seal of the procuracy issuing the protest decision.
2. The protest decisions must be immediately sent to the first-instance courts that have rendered the protested judgments or decisions so that such courts shall carry out procedures stipulated by this Code and send the case files to the appeal courts as provided for in Article 255 of this Code
3. Enclosed with the protest decisions shall be additional documents and/or evidences to prove that the procuracies’ protests are well grounded and lawful.
Article 252.- Time limit for a protest
1. The time limit for making a protest against the first-instance court’s judgment shall be fifteen days for the procuracy of the same level and thirty days for the immediate superior procuracy, counting from the date of judgment pronouncement. In cases where the procurators do not attend the court sessions, the protest time limit shall be counted from the date the procuracy of the same level receives the judgment.
2. The time limit for making a protest against the first-instance court’s decision on suspending or stopping the resolution of the case shall be seven days for the procuracy of the same level and ten days for the immediate superior procuracy, counting from the date the procuracy of the same level receives such decision.
Article 253.- Notification of protests
1. The procuracy issuing a protest decision must promptly send the protest decision to the parties relating to the protest.
2. Persons who are notified of the protest shall be entitled to send to the appellate court documents expressing their views on the protested matters. Such documents shall be included in the case files.
Article 254.- Effects of an appeal or a protest
1. The appealed or protested parts of the first-instance judgment or decision shall not be enforced, except where the law requires the immediate enforcement thereof.
2. The first-instance courts’ judgments, decisions or parts thereof, which are not appealed or protested against, shall take legal effect as from the date of expiry of the appeal or protest time limit.
Article 255.- Forwarding case files, appeals, protests
The first-instance courts must forward to the appeal courts case files, appeals and/or protests and the accompanying documents, evidences within five working days from the date:
1. The appeal or protest time limit expires if the appellant must not pay the appeal court fee advance;
2. The appellant submits to the first-instance court the receipt of appeal court fee advance payment.
Article 256.- Modifying, supplementing, withdrawing appeals, protests
1. Before the opening of appeal court sessions or at appeal court sessions, the appellants may modify or supplement their appeals and the procuracies issuing protest decisions may modify or supplement their protests provided that the modification or supplementation must not go beyond the scope of the original appeals or protests, if the appeal or protest time limit has expired.
2. Before the opening of appeal court sessions or at appeal court sessions, the appellants may withdraw their appeals and the procuracies issuing protest decisions or the immediate superior procuracy may withdraw their protests.
The appeal courts shall stop the appellate trial of parts of the cases against which the appellants have withdrawn their appeals or the procuracies have withdrawn their protests.
3. The modification, supplementation or withdrawal of appeals or protests before the opening of appeal court sessions must be made in writing and sent to the appellate courts. The appeal courts must promptly notify the involved parties of such modification or withdrawal.
The modification, supplementation or withdrawal of appeals or protests at court sessions must be recorded in the minutes of the court sessions.
Chapter XVI

PREPARATION FOR AN APPELLATE TRIAL

Article 257.- Accepting cases for appellate trial
1. Immediately after receiving case files, appeals, protests and accompanying documents, evidences, the appeal courts shall record them in acceptance books.
2. The chief judge of the appeal court or the chief judge of the appeal court of the Supreme People’s Court shall set up the Appellate Trial Panel and assign a judge to act as the presiding judge.
Article 258.- Time limit for appellate trial preparation
1. Within 2 months as from the date of receiving a case, the appeal court shall, depending on each specific case, issue one of the following decisions:
a) To suspend the appellate trial of the case;
b) To stop the appellate trial of the case;
c) To bring the case to appellate trial.
For complicated cases or due to objective obstacles, the chief judge of the appeal court may decide to prolong the trial preparation time limit but for not more than one month.
2. Within one month as from the date of issuance of the decision to bring the case to trial, the court must open an appeal court session; in case of plausible reasons, this time limit shall be two months.
3. Decisions to bring the case to appellate trial must be forwarded to the procuracies of the same level and persons relevant to the appeal or the protest.
Article 259.- Suspension of the appellate trial of cases
The appeal courts shall issue decisions to suspend the appellate trial of cases; the consequences of suspension of the appellate trial of cases and the resumption of appellate trial of cases shall comply with the provisions of Articles 189, 190 and 191 of this Code.
Article 260.- Stoppage of the appellate trail of cases
1. The appeal courts shall issue decisions to stop the appellate trial of cases in the following cases:
a) Cases prescribed at Points a and b of Clause 1 of Article 192 of this Code;
b) The appellants withdraw the entire appeals or the procuracies withdraw the entire protests;
c) Other cases prescribed by law.
2. Where the appeal courts issue decisions to stop the appellate trials of cases under the provisions of Point b, Clause 1 of this Article, the first-instance judgments or decisions shall take legal effect as from the date the appeal courts issue such decisions.
Article 261.- Decisions to apply, change or cancel the provisional emergency measures
During the appellate trials, preparation time limit, the appeal courts may decide to apply, change or cancel provisional emergency measures prescribed in Chapter VIII of this Code.
Article 262.- Forwarding the case files to the procuracies for study
1. After accepting cases for appellate trial, the appeal courts must transfer the case files to the procuracies of the same level for study.
2. The time limit for the procuracies of the same level to study the case files shall be fifteen days as from the date of receiving the case files; upon the expiry of such time limit, the procuracies must return the case files to the courts.
Chapter XVII

APPELLATE TRIAL PROCEDURES

Article 263.- Scope of appellate trial
The appeal courts shall only review the parts of the first-instance judgments or decisions, which are appealed or protested against or related to the review of the appealed or protested contents.
Article 264.- Participants in appeal court sessions
1. The appellants, the involved parties, individuals, agencies and/or organizations that are related to the resolution of the appeals or protests and the defense counsels of the involved parties’ legitimate rights and interests must be summoned to the appeal court sessions. The courts can summon other procedure participants to court sessions if they deem it necessary for the resolution of the appeals or protests.
2. Procurators of the procuracies of the same level must participate in the appeal court sessions in cases where the procuracies lodge the protests or have participated in the first-instance court sessions.
Article 265.- Suspension or stoppage of appellate trials at court sessions
At appeal court sessions, the suspension or stoppage of the appellate trail of cases shall comply with the provisions of Articles 259 and 260 of this Code.
Article 266.- Postponement of appeal court sessions
1. In cases where procurators of the procuracies of the same level, who must participate court sessions, are absent, the appeal court sessions must be postponed.
2. If the appellants are absent for the first time for plausible reasons, the court sessions must be postponed. If the appellants who have been duly summoned twice but are still absent, they shall be considered having waived their appeals and the courts shall issue decisions to stop the appellate trial of the cases, appealed by the absent appellants.
3. If procedure participants other than the appellants are absent from court sessions, the postponement or continuation of the appeal court sessions shall comply with the provisions of Articles 199, 200, 201, 202, 203, 204, 205 and 206 of this Code.
4. The duration for postponement of, and the decisions to postpone, the appeal court sessions shall comply with the provisions of Article 208 of this Code.
Article 267.- Preparation for the opening of appeal court sessions and procedures for starting the appeal court sessions
The preparation for the opening of appeal court sessions and the procedures for starting the appeal court sessions shall comply with the provisions of Articles 212, 213, 214, 215 and 216 of this Code.
Article 268.- Inquiries at court sessions
1. After the conclusion of the procedures for opening an appeal court session, a member of the trial panel shall announce the contents of the case, the decision of the first-instance judgment and the appealed or protested contents.
2. The presiding judge shall ask the following:
a) Whether or not the plaintiff wishes to withdraw his/her/its lawsuit petition.
b) Whether or not the appellant or the procurator wishes to change, supplement or withdraw their appeal or protest;
c) Whether or not the involved parties can reach mutual agreements on the resolution of the case.
Article 269.- Plaintiffs withdraw lawsuit petitions before the opening of, or at, appeal court sessions
1. If the plaintiffs withdraw their lawsuit petitions before the opening of, or at, appellate court sessions, the Trial Panels must ask the defendants whether they agree therewith or not and may settle on a case-by-case basis as follows:
a) Disapproving the withdrawal of lawsuit petitions by the plaintiffs if the defendants disagree;
b) Approving the withdrawal of lawsuit petitions by the plaintiffs if the defendants agree. The Appellate Trial Panels shall issue decisions to abrogate first-instance judgments and stop the resolution of the cases. In this case, the involved parties are still required to pay the first-instance court fees as decided by the first-instance courts and half of the appellate court fees as provided for by law.
2. In cases where the Appellate Trial Panels issue decisions to stop the resolution of the cases, the plaintiffs shall be entitled to re-institute the cases according to the procedures prescribed by this Code, if the statute of limitations for such case re-institution has not yet expired.
Article 270.- Recognizing the agreement of the involved parties at appeal court sessions
1. At appeal court sessions, if the involved parties can reach mutual agreement on the resolution of their cases and their agreements are voluntary and not contrary to law or social ethics, the appellate trial panels shall render appellate judgments to revise the first-instance court judgments and recognize the agreement of the involved parties.
2. The involved parties may also reach agreement on the payment of the first-instance court fees. If they fail to reach such agreement, the courts shall make decision according to law provisions.
Article 271.- Hearing presentations of the involved parties at appeal court sessions
1. In cases where the involved parties still uphold their appeals or the procuracies maintain their protests while the involved parties cannot reach mutual agreement on the resolution of the cases, the appellate trial panels shall start the case trial by listening to the presentations of the involved parties in the following order:
a) The defense counsels of the appellants’ legitimate rights and interests shall present the appealed contents and the grounds therefor. The appellants may give additional opinions. In cases where all involved parties appeal, the presentations shall be made in the following order: the defense counsels of legitimate rights and interests of the appellants being plaintiffs and the plaintiffs; the defense counsels of legitimate rights and interests of the appellants being defendants and the defendants; the defense counsels of the legitimate rights and interests of the appellants being persons with related rights and obligations and the persons with related rights and obligations.
In cases where only procuracies protest, the procurators shall present the protested contents and the grounds therefor; in cases where there are both appeal and protest, the involved parties shall present the appealed contents and the grounds therefore first, then the procurators shall present the protested contents and the grounds therefor;
b) The defense counsels of legitimate rights and interests of other parties related to the appeal or the protest shall present their opinions on the appealed and protested contents. The involved parties may give additional opinions.
2. In cases where the involved parties have no defense counsels, they shall themselves present their opinions on the appealed or protested contents as well as their proposals.
3. At the appeal court sessions, the involved parties and procurators may produce additional evidences.
Article 272.– Procedures for inquiries and publicization of documents, examination of exhibits at appeal court sessions
1. Procedures for inquiring participants and publicizing documents, examining exhibits at appeal court sessions shall be the same as those applicable at first-instance court sessions.
2. The inquiry shall be made on matters falling within the scope of appellate trials as stipulated in Article 263 of this Code.
Article 273.- Arguments at appeal court sessions
Arguments at appeal court sessions shall be conducted in a way similar to those at the first-instance court sessions, and the order of presentation shall comply with the provisions of Article 271 of this Code and the arguments shall be conducted only on matters falling within the scope of appellate trials and having been already asked at the appeal court sessions.
Article 274.- Deliberation and judgment pronouncement
The deliberation, the inquiry resumption and arguments, the time for deliberation, pronouncement, amendment and supplementation of appellate judgments shall comply with the first-instance procedures.
Article 275.- Jurisdiction of the appellate trial panels
The appellate trial panels shall have the following rights:
1. To uphold the first-instance judgments;
2. To revise the first-instance judgments;
3. To repeal the first-instance judgments and transfer the case files to the first-instance courts for retrial of the cases;
4. To abrogate the first-instance judgments and stop the resolution of the cases.
Article 276.- Amendment of first-instance judgments
The appellate trial panels can revise part or whole of a first-instance judgment if the first-instance court made a decision in contravention of law in the following cases:
1. The proof and collection of evidences have been carried out sufficiently and in accordance with the provisions of Chapter VII of this Code.
2. The proof and collection of evidences have not yet been carried out sufficiently at the first-instance level but have been fully supplemented at appellate court sessions.
Article 277.- Annulment of first-instance judgments and transfer of case files to the first-instance courts for retrial of cases
The appellate trial panels shall annul the first-instance judgments and transfer the case files to the first-instance courts for retrial of the cases in the following circumstances:
1. The proof and collection of evidences have failed to comply with the provisions of Chapter VII of this Code or have not yet been fully carried out while the supplementation thereof cannot be made at the appeal court sessions;
2. The composition of the first-instance Trial Panels has fail to comply with the provisions of this Code or other serious procedural violations have been committed.
Article 278.- Annulment of first-instance judgments and stoppage of case resolution
The appellate trial panels shall annul first-instance judgments and stop the case hearings if during the resolution of the cases at the first-instance court sessions, the cases fell under one of the circumstances stipulated in Article 192 of this Code.
Article 279.- Appellate court judgments
1. The appellate trial panels shall, in the name of the Socialist Republic of Vietnam, render appellate court judgments.
2. An appellate court judgment shall be composed of:
a) The introduction;
b) The case contents, appeal, protest, assessment;
c) The court ruling.
3. The introduction section must clearly state the name of the appeal court; the code number and date of the case acceptance; the serial number of the judgment and the date of judgment pronouncement; full names of the members of the trial panel, court clerk, procurator, expert-witness and interpreter; full names and addresses of the plaintiffs, defendants, persons with related rights and obligations; agencies or organizations initiating the lawsuit or their lawful representatives, the defense counsels of their legitimate rights and interests; names of appellants or protesting procuracy; public or closed trial, time and place of trial.
4. The section on the case contents, the appeal or the protest and assessment must summarize the contents of the case and decision of the first-instance court; content of the appeal or protest; assessment of the appellate trial panel; specific points, clauses and articles of the legal normative documents on which the appellate trial panel base to settle the case.
The assessment of the appellate trial panel must analyze grounds for accepting or not accepting the appeal or the protest.
5. The court ruling section must clearly state the appellate trial panel’s decisions on matters which had to be settled in the case due to the appearance of appeal or protest, and on the payment of the first-instance court fees and/or appellate court fees.
6. The appellate judgments shall take effect as from the date they are pronounced.
Article 280.- Procedures for appellate revision of decisions of the first-instance courts which are appealed or protested against
1. When reviewing first-instance courts’ decisions, which are appealed or protested against, the appellate trial panels shall not be required to open court sessions nor summon the involved parties, except where it is necessary to hear their opinions before making decisions.
2. Procurators of the procuracies of the same level shall participate in the appellate meetings to review the first-instance courts’ judgments which are appealed or protested against.
3. One member of the appellate trial panel shall present the summarized contents of the first-instance judgments which are appealed or protested against, the contents of the appeals or the protests and accompanying documents as well as evidences, if any.
4. The procurators state the procuracies’ opinions on the resolution of the appeals or protests before the appellate trial panels make decisions.
5. When reviewing the first-instance courts’ decisions, which are appealed or protested against, the appellate trial panels shall have the power to:
a) Uphold the first-instance courts’ decisions;
b) Amend the first-instance courts’ decisions;
c) Abrogate the first-instance courts’ decisions and transfer the case files to the first-instance courts for continued resolution of the cases.
6. The appellate decisions shall take effect as from the date they are issued.
Article 281.- Forwarding appellate judgments, decisions
Within fifteen days as from the date the appellate judgments or decisions are issued, the appellate courts must forward the judgments and/or decisions to the courts which conducted the first-instance trials, the procuracies of the same level, the competent civil judgment-executing bodies, the appellants, persons whose rights and obligations are related to the appeals or the protests or their lawful representatives.
In cases where the appeal court of the Supreme People’s Court conducts the appellate trials, this time limit may be longer but shall not exceed twenty five days.
Part Four

PROCEDURES FOR REVIEWING LEGALLY EFFECTIVE JUDGMENTS, DECISIONS

Chapter XVIII

CASSATION PROCEDURES

Article 282.- Nature of cassation
Cassation means the review of courts’ legally effective judgments or decisions, which are protested against as serious law violations in the settlement of cases are detected.
Article 283.- Grounds for protest according to cassation procedures
Legally effective judgments or decisions of courts shall be protested against according to cassation procedures when there is one of the following grounds:
1. Conclusions in the judgments or decisions are incompatible with the objective details of the cases;
2. Serious violations are committed in legal proceedings;
3. Serious errors are made in the application of laws.
Article 284.- Discovering legally effective judgments or decisions which need to be reviewed according to cassation procedures
1. The involved parties, individuals, agencies or other organizations are entitled to discover law violations in legally effective judgments or decisions of courts and notify such in writing to the persons entitled to protest as defined in Article 285 of this Code.
2. Where law violations are discovered in legally effective judgments or decisions of courts, the procuracies and/or the courts must notify such in writing to the persons entitled to protest, defined in Article 285 of this Code.
Article 285.- Persons who are entitled to protest according to cassation procedures
1. The chief judge of the Supreme People’s Court and the Chairman of the Supreme People’s Procuracy shall be entitled to protest according to cassation procedures against the legally effective judgments or decisions of the courts of all levels, except for cassation decisions of the Council of Judges of the Supreme People’s Court.
2. The chief judges of the provincial-level People’s Courts and the chairmen of the provincial-level People’s Procuracies shall be entitled to protest according to the cassation procedures against legally effective judgments or decisions of district-level People’s Courts.
Article 286.- Postponement and suspension of enforcement of legally effective judgments or decisions.
1. Persons who are competent to protest against legally effective judgments or decisions of courts may request the postponement of enforcement of judgments or decisions in order to consider the protests according to cassation procedures. The postponement of enforcement of judgments shall comply with law provisions on civil judgment execution.
2. Persons who have protested according to cassation procedures legally effective judgments or decisions shall have the right to decide on the suspension of enforcement of such judgments or decisions until the cassation decisions are made.
Article 287.- Decisions to protest according to cassation procedures
A decision to protest according to cassation procedures shall consist of the following principal contents:
1. Number and date of the protest decision;
2. Position of the person who makes the protest decision;
3. Number and date of the legally effective judgment or decision being protested against;
4. Rulings of the legally effective judgment or decision being protested against;
5. Comments, analysis of the violations or errors of the legally effective judgment or decision being protested against;
6. Legal grounds for making the protest decision;
7. Decision to protest against parts or whole of the legally effective judgment or decision;
8. Name of the court that is competent to conduct cassation review of such case;
9. Proposals of the protestant.
Article 288.- Time limit for protest according to cassation procedures
Persons who are entitled to protest according to cassation procedures may only make their protests within three years as from the date the court judgments or decisions take legal effect.
Article 289.- Modification, supplementation, withdrawal of protest decisions according to cassation procedures
1. Persons who have protested according to cassation procedures shall be entitled to modify or supplement the protest decisions if the protest time limit prescribed in Article 288 of this Code has not yet expired.
2. Persons who have protested shall be entitled to withdraw parts or whole of the protest decisions before the opening of court sessions or at cassation review court sessions.
Article 290.- Forwarding decisions to protest according to cassation procedures
1. Decisions to protest according to cassation procedures must be immediately sent to the courts that have issued the legally effective judgments or decisions being protested against, the involved parties, the competent civil judgment-executing agencies and persons whose rights and obligations are related to the protested contents.
2. In cases where the Chief Judge of the Supreme People’s Court or the chief judges of the provincial-level People’s Courts protest, the protest decisions and the case files must be immediately sent to the people’s procuracies of the same level. The procuracies shall study the files within 15 days as from the date of receiving the case files; upon the expiry of such time limit, the procuracies must transfer the case files to the courts competent to hear the cases according to cassation procedures.
3. In cases where the Chairman of the Supreme People’s Procuracy or the heads of the provincial-level people’s procuracies protest, the protest decisions must be immediately sent to the courts competent to hear the cases according to cassation procedures.
Article 291.- Jurisdiction to review cases according to cassation procedures
1. The Committee of Judges of the provincial-level people’s courts shall review according to cassation procedures legally effective judgments and decisions of the district-level people’s courts, which are protested against.
2. The Civil Court, the Economic Court, the Labor Court of the Supreme People’s Court shall review according to cassation procedures legally effective judgments or decisions of the provincial-level people’s courts, which are protested against.
3. The Council of Judges of the Supreme People’s Court shall review according to cassation procedures legally effective judgments and decisions of appellate courts, the Civil Court, the Economic Court and the Labor Court of the Supreme People’s Court, which are protested against.
4. When legally effective judgments, or decisions on the same civil case which fall under the jurisdiction of the courts of different levels as stipulated in Clauses 1 and 2 of this Article are protested against, the competent superior court shall review the whole case according to cassation procedures.
Article 292.- Participants in cassation review court sessions
1. The cassation review court sessions must be participated by the Procuracies of the same level.
2. When deeming it necessary, the courts shall summon proceedings participants and other persons related to the protest to participate in cassation review court sessions.
Article 293.- Time limit for opening of cassation review court sessions
Within four months as from the date of receiving the protests and case files, the courts competent to cassation review must open court sessions to review cases according to cassation procedures.
Article 294.- Preparations for cassation review court session
The court chief judges shall assign a judge to prepare written explanation of the case at the court session. The written explanations summarize the case contents and the judgments, decisions of the courts of different levels as well as the protested contents. The explanation must be forwarded to members of the Cassation Review Councils at least seven days before the opening of the cassation review court sessions.
Article 295.- Proceedings at cassation review court sessions
1. After the presiding judge opens a court session, a member of the Cassation Review Panel shall present the brief contents of the case; the case handling process; rulings of the legally effective court judgments or decisions being protested; grounds for the protest and proposals of the protestant. The representative of the procuracy shall express the opinions of the procuracy on the protest decision.
2. In cases where proceedings participants or other persons are summoned by the courts to participate in the cassation review court sessions, these persons shall be allowed to present their opinions on the protest decision. The representative of the procuracy expresses the opinion of the procuracy on the protest decision.
3. Members of the Cassation Review Panel shall discuss and express their opinions on the resolution of the case. The representative of the procuracy presents the opinions of the procuracy on the resolution of the case.
4. The Cassation Review Panel shall vote on the resolution of the case.
The cassation review decisions of the Committees of Judges of the provincial-level people’s courts or the Judges’ Council of the Supreme People’s Court must be voted for by more than half of the total number of their members.
The Judges’ Committee of the provincial-level people’s courts or the Judges’ Council of the Supreme People’s Court shall vote in the order of for and against the protest and other opinions; if the decisions are not voted for by more than half of the total number of members of the Judges’ Committee of a provincial-level people’s court or the Judges’ Council of the Supreme People’s Court, the court session must be postponed. Within 30 days as from the date of issuing the decision to postpone the court session, the Judges’ Committee or the Judges’ Council must re-try the case with the participation of all members.
Article 296.- Scope of the cassation review
1. The Cassation Review Panels shall only review parts of legally effective judgments or decisions being protested against or related to the review of the protested contents.
2. The Cassation Review Panels shall be entitled to review parts of the legally effective judgments or decisions which are neither protested against nor related to the review of the protested contents, if these parts infringe upon the interests of the State, or the interests of the third parties other than the involved parties in the cases.
Article 297.- Jurisdiction of the Cassation Review Panels
The Cassation Review Panels shall have the following rights:
1. To reject the protests and uphold the legally effective judgments or decisions;
2. To uphold the lawful judgments or decisions of the subordinate courts, which have been annulled or amended;
3. To annul legally effective judgments or decisions for re-trials according to the first-instance or appellate procedures;
4. To annul judgments or decisions of the courts which have tried the cases and stop the resolution thereof.
Article 298.- Upholding the subordinate courts’ lawful judgments or decisions which have been annulled or amended
The Cassation Review Panels shall issue decisions to annul legally effective judgments or decisions being protested and uphold the judgments or decisions rendered legally by subordinate courts but partially or entirely annulled or amended by legally effective judgment or decisions being protested.
Article 299.- Annulment of the legally effective judgments or decisions, which are protested against, for first-instance re-trial or appellate re-trial.
The Cassation Review Panels shall issue decisions to annul legally effective judgments or decisions being protested against for re-trials according to the first-instance or appellate procedures in the following cases:
1. The proof and collection of evidences have been carried out insufficiently or in contravention of the provisions of Chapter VII of this Code;
2. The conclusions in the judgments or decisions do not conform to the objective details of cases or serious errors are committed in the application of law.
3. The composition of the first-instance or appellate trial panel fails to comply with the provisions of this Code or other serious procedural violations have been committed.
Article 300.- Annulment of legally effective judgments and/or decisions and stopage of case resolution
The Cassation Review Panels shall issue decisions to annul legally effective judgments and/or decisions and stop the case resolution if the cases fall under one of the circumstances stipulated in Article 192 of this Code.
Article 301.- Cassation review decisions
1. The Cassation Review Panels shall issue decisions in the name of the Socialist Republic of Vietnam.
2. A cassation review decision must contain the following principal contents:
a) Date and place of opening the court session;
b) Full names of members of the Cassation Review Panel. In cases where the Cassation Review Panel is the Committee of Judges of a provincial people’s courts or the Council of Judges of the Supreme People’s Court, the full name and title of the presiding judge and the number of members participating in the hearing shall be specified;
c) Full names of the court clerk and the procurator participating in the court session;
d) Name of the case that has been brought to cassation review trial by the Panel;
e) Full names and addresses of the involved parties in the case;
f) Summary of the contents of the case, rulings of the legally effective judgment or decision being protested against;
g) Decision to protest; grounds for making the protest;
h) Assessment of the Cassation Review Panel analyzing the grounds for accepting or not accepting the protest;
i) Points, clauses or articles of the Civil Procedure Code, on which the Cassation Review Panel bases to make decision;
j) Decision of the Cassation Review Panel.
Article 302.- Effect of the cassation review decisions
The cassation review decisions shall take legal effect as from the date the Cassation Review Panels issue them.
Article 303.- Forwarding the cassation review decisions
Within five working days as from the date of issuance of decisions, the Cassation Review Panels must forward the cassation decisions to:
1. The involved parties and other persons with related interests and obligations under the cassation review decisions;
2. The courts which have rendered legally effective judgments or decisions being protested against;
3. The procuracy of the same level, the competent civil judgment-executing agencies.
Chapter XIX

REOPENING PROCEDURES

Article 304.- Nature of reopening procedures
Reopening means the review of legally effective judgments or decisions which are protested against due to the appearance of newly detected details which may substantially change the contents of the judgments or decisions and which were not known to the courts and the involved parties when the courts rendered such judgments or decisions.
Article 305.- Grounds for protest according to reopening procedures
Legally effective judgments or decisions shall be protested against according to reopening procedures when there is one of the following grounds:
1. Important details of the case were newly discovered which the involved parties could not have known in the course of resolving the case;
2. There are grounds to prove that the conclusions of the expert witnesses and translations of interpreters were untruthful or evidences were falsified;
3. Judges, people’s jurors or procurators intentionally diverted the case files or deliberately made unlawful conclusions;
4. The criminal, administrative, civil, marriage and family, business, commercial or labor decisions of courts or decisions of State agencies on which the courts based themselves to resolve the cases had already been annulled.
Article 306.- Notice and verification of newly discovered details
1. The involved parties, individuals, agencies or organizations shall be entitled to discover new details of cases and notify them in writing to the persons entitled to protest, defined in Article 307 of this Code.
2. In cases where new details of cases are discovered, the procuracies and the courts must notify them in writing to the persons entitled to protest, defined in Article 307 of this Code.
Article 307.- Persons entitled to protest according to reopening procedures
1. The Chief Judge of the Supreme People’s Court and the Chairman of the Supreme People’s Procuracy shall have the power to protest according to reopening procedures against legally effective judgments or decisions of courts of all levels, except for the decisions of the Council of Judges of the Supreme People’s Court.
2. Chief Judges of the provincial-level people’s courts and heads of the provincial-level people’s procuracies shall have the power to protest against legally effective judgments or decisions of the district-level people’s courts.
3. Persons who have protested against legally effective judgments or decisions shall have the power to suspend the enforcement of such judgments or decisions until the reopening decisions are made.
Article 308.- Time limit for protest according to reopening procedures
The time limit for protest according to reopening procedures shall be one year counting from the date the persons having the power to protest acquire grounds for protest according to reopening procedures prescribed in Article 305 of this Code;
Article 309.- Jurisdiction of the Reopening Procedure Panels
The Reopening Procedure Panels shall have the following rights:
1. To reject protests and uphold legally effective judgments or decisions;
2. To annul legally effective judgments or decisions for first-instance retrial according to the procedures prescribed by this Code;
3. To annul legally effective judgments or decisions and stop the resolution of the cases.
Article 310.- Application of the provisions on reopening procedures
Other provisions on reopening procedures shall comply with the provisions on the cassation procedures prescribed in this Code.
Part Five

PROCEDURES FOR RESOLUTION OF CIVIL MATTERS

Chapter XX

GENERAL PROVISIONS ON PROCEDURES FOR RESOLUTION OF CIVIL MATTERS

Article 311.- Scope of application
The courts shall apply the provisions of this Chapter and other provisions of this Code, which are not contrary to the provisions of this Chapter, to resolve civil matters prescribed in Clauses 1, 2, 3, 4 and 6 of Article 26 and Clauses 1, 2, 3, 4, 5 and 7 of Article 28, Clauses 1 and 4 of Article 30, Clause 3 of Article 32 of this Code.
Civil matters mean a situation where individuals or organizations have no disputes but request courts to recognize or not to recognize a legal event which serves as a basis for the rise of civil, marriage and family, business, commercial or labor rights and obligations of their own or of other individuals, agencies or organizations, or request courts to recognize their civil, marriage and family, business, commercial or labor rights.
Article 312.- Petitions for the court resolution of civil matters
1. Persons requesting courts to resolve civil matters must file their petitions with competent courts defined in Section 2 of Chapter III of this Code.
2. A petition shall contain the following principal contents:
a) Date of making the petition;
b) Name of the court that is competent to handle the petition;
c) Full name and address of the petitioner;
d) Specific issues requested to be resolved by the court; reasons, purposes and bases of the request for a court resolution of such civil matters;
e) Full names and addresses of persons who are related to the resolution of the petition, if any.
f) Other information that are deemed by the petitioner to be relevant to the resolution of his/her petition;
g) Signature or fingerprint of petitioner being individual or signature and seal of the lawful representative of the agency or organization being the petitioner.
3. The petition must be accompanied by documents, evidences to prove that the petitions are well-grounded and lawful.
Article 313.- Participants in meetings to resolve civil matters
1. The courts must hold open meetings to resolve civil matters.
After issuing decision to hold meetings for resolution of civil matters, the courts must immediately send such decisions and the dossiers on the civil matters to the procuracies of the same level for study. The procuracies must study them within seven days after the receipt of the dossiers; past this time limit, the procuracies must return the dossiers to the courts for holding meetings to resolve the civil matters.
2. Procurators of the procuracies of the same level must attend the meetings. In cases where they are absent the meetings must be postponed.
3. Petitioners or their lawful representatives must participate in the meetings under the courts’ subpoena.
If petitioners are absent for the first time for plausible reasons, the courts shall postpone the meetings. Where petitioners request the courts to resolve the civil matters in their absence, the courts may do so. If petitioners have been duly summoned twice but still absent, they shall be deemed to waive their petitions and the courts shall issue decisions to stop the resolution of the civil matters. In cases where the courts issue decisions to stop the resolution of the civil matters, the petitioner’s right to request the courts to resolve the civil matters according to the procedures prescribed by this Code shall still be guaranteed.
4. Related persons or their lawful representatives may be summoned to the meetings by courts. In case of necessity, the courts may summon witnesses, expert-witnesses and/or interpreters to attend the meetings. If any of them is absent, the courts shall decide to postpone the meetings or to proceed with the meetings.
Article 314.- Procedures for conducting meetings to resolve civil matters
1. A meeting to resolve civil matters shall be conducted in the following order:
a) The court clerk shall report on the presence or absence of meeting participants;
b) The judge shall open the meeting; check the presence or absence of persons who are summoned to the meeting and their identity cards;
c) Petitioner or his/her lawful representative shall present specific issues that are requested to be dealt with by the court; reasons, purposes and grounds for requesting the court resolution of such civil matters;
d) Related persons or their lawful representatives shall express their opinions on matters pertaining to their rights and obligations in the resolution of the civil matters;
e) Witnesses present their opinions; or expert-witnesses present their conclusions and explain issues which remain unclear or contradictory;
f) Evidences shall be examined;
g) Procurator shall present the procuracy’s views on the resolution of the civil matters;
h) The judge shall consider and decide to accept or not to accept the request for resolution of the civil matters;
2. In case where a person is absent, the judge may publicize the testimonies, documents and/or evidences supplied or disclosed to the court by that person.
Article 315.- Decision on resolution of civil matters
1. A decision to resolve civil matters shall contain the following principal contents:
a) Date of making the decision;
b) Name of the court that issues the decision;
c) Full names of the judge, procurator, court clerk;
d) Full name and address of the petitioner for the resolution of civil matters;
e) Specific matters requested to be resolved by the court;
f) Names and addresses of the related persons;
g) Assessment of the court and grounds for accepting or not accepting the petition;
h) Legal bases for resolution of civil matters;
i) Court’s rulings;
j) Court fees to be paid.
2. Decisions to resolve civil matters must be forwarded to the procuracies of the same level, competent judgment-executing agencies, the petitioners for the resolution of civil matters and individuals, agencies and/or organizations whose rights and obligations are related to such decisions within five working days as from the date of issuance of such decisions.
Article 316.- Appeal and protest against civil matter-resolving decisions
Petitioners and individuals, agencies and/or organizations whose rights and obligations are related to civil matter-resolving decisions shall be entitled to appeal, the procuracies of the same level and immediate superior procuracy shall be entitled to protest against civil matter-resolving decisions in order to request the immediate superior court to re-settle them according to the appellate procedures, except those decisions prescribed in Clauses 2 and 3, Article 28 of this Code.
Article 317.- Appeal or protest time limits
1. The petitioners and individuals, agencies and/or organizations whose rights and obligations are related to civil matter-resolving decisions shall be entitled to appeal against such decisions within seven days as from the date the courts issue such decisions, except for cases prescribed in Clause 1 of Article 358 and Clause 1 of Article 372 of this Code. In cases where they are not present at court sessions, such time limit shall be counted from the date they receive the civil matter-resolving decisions or the date such decisions are announced or posted up.
2. The procuracies at the same level shall be entitled to protest against civil matter-resolving decisions within 7 days, the immediate superior procuracies shall be entitled to protest within 15 days as from the date the courts make such decisions, except for cases prescribed in Clause 2, Article 358 and in Clause 2, Article 372 of this Code.
Article 318.- Procedures for appellate trial of civil matter-resolving decisions which are appealed or protested against
The procedures for appellate review of civil matter-resolving decisions being appealed or protested against shall comply with the provisions of Article 280 of this Code.
Chapter XXI

PROCEDURES FOR RESOLUTION OF PETITIONS TO DECLARE PERSONS LOSING THEIR CIVIL ACT CAPACITY OR HAVING RESTRICTED CIVIL ACT CAPACITY

Article 319.- The petitions to declare persons losing their civil act capacity or having restricted civil act capacity
1. Persons with related rights and obligations, relevant agencies or organizations shall be entitled to request courts to declare persons losing their civil capacity or having restricted civil act capacity according to the provisions of the Civil Code.
2. The petitions for courts to declare persons losing their civil act capacity or having restricted civil act capacity must fully contain the details prescribed in Clause 2, Article 312 of this Code.
3. The petitions for courts to declare persons losing their civil act capacity must be accompanied by the conclusions of professional bodies and other evidences to prove that such persons suffer mental or other diseases that render them unable to perceive or control their acts.
4. The petitions for courts to declare persons having restricted civil act capacity must be accompanied by evidences to prove that such persons are drug addictive or addicted to other stimulants, thus leading to a damage or loss of the assets of their families.
Article 320.- Preparation for petition consideration
1. The time limit for preparing the consideration of a petition for the court to declare a person losing his/her civil act capacity or having restricted civil act capacity shall not exceed thirty days as from the date the court accepts the petition. Upon the expiry of such time limit, the court shall issue a decision to hold a meeting to consider the petition.
2. During the time limit of preparing the petition consideration, at the proposals of the involved parties, the courts may request the examination of the health or ailments of the persons who are requested to be declared losing their civil act capacity or having restricted civil act capacity. In this case, the courts shall issue decisions to open meetings to consider the petitions after the examination conclusions are made.
3. During the preparation for consideration of a petition, if the petitioner withdraws his/her petition, the court shall issue a decision to stop the petition consideration.
4. Within fifteen days as from the date the decision to open a meeting is issued, the judge must hold such meeting to consider the petition.
Article 321.- Decisions to declare persons losing their civil act capacity or having restricted civil act capacity
1. The courts may accept or reject petitions to declare persons losing their civil act capacity or having restricted civil act capacity.
2. In cases where a petition is accepted by the court, the court shall issue a decision to declare a person losing his/her civil act capacity or having restricted civil act capacity.
In its decision to declare a person having restricted civil act capacity, the court must decide on the at-law representative of the person having a restricted civil act capacity and the scope of representation.
Article 322.- Petitions for annulling decisions to declare persons losing their civil act capacity or having restricted civil act capacity
1. When a person who is declared by the court to have lost his/her civil act capacity or have had a restricted civil act capacity is no longer in the declared state, that person or persons with related rights and obligations or relevant agencies or organizations may request the court to issue a decision to annul the decision that has declared such person losing his/her civil act capacity or having restricted civil act capacity.
2. A petition for the court to annul the decision that declares a person losing his/her civil act capacity or having restricted civil act capacity must include all the contents prescribed in Clause 2 of Article 312 of this Code.
Article 323.- Preparing for petition consideration and decisions of courts
1. The time limit for preparing to consider a petition requesting the court to annul a decision that has declared a person losing his/her civil act capacity or having restricted civil act capacity shall comply with the provisions of Article 320 of this Code.
2. The court may accept or reject petitions for annulling decisions that have declared persons losing their civil act capacity or having restricted civil act capacity.
3. In case of accepting the petitions the courts shall issue decisions to annul the decisions that have declared persons losing their civil act capacity or having restricted civil act capacity.
Chapter XXII

PROCEDURES FOR RESOLUTION OF PETITIONS TO ISSUE NOTICES ON SEARCH OF PERSONS ABSENT FROM THEIR RESIDENCE PLACES

Article 324.- Petitions for issuing notices on search of persons absent from their residence places
1. Persons with related rights and interests shall be entitled to request courts to issue notices on search of persons absent from their residence places when such persons are absent for six consecutive months or more, and at the same time request courts to apply measures for management of the assets of the absent persons under the provisions of the Civil Code.
2. A petition for the court to announce the search of a person absent from his/her residence place must contain all contents prescribed in Clause 2 of Article 312 of this Code.
3. The petitions to request courts to issue notices on search of persons absent from their residence places must be accompanied by evidences to prove that such persons have been absent for six consecutive months or more. In case of petitions for the courts to take measures to manage the assets of the absent persons, the petitioners must provide documents on the situation of assets of the absent persons, the management of the existing assets as well as the list of the absent persons’ relatives.
Article 325.- Preparing to consider petitions
1. The time limit for preparing to consider a petition for the court to issue a notice on search of a person absent from his/her residence place shall be 20 days as from the date the court receives the petition. Upon the expiry of such time limit, the court shall issue a decision to open a meeting to consider the petition.
2. Within the above-mentioned time limit, the courts may issue decisions to stop the petition consideration if the petitioners withdraw their petitions or the persons on search notice return and request the courts to stop considering the petitions.
3. Within 10 working days as from the date of issuance of the decision to open a meeting, the judge must open a meeting to consider the petition.
Article 326.- Decisions to issue notices on search of persons absent from their residence places
1. The courts may accept or not accept petitions for issuance of notices on search of persons absent from their residence places.
2. In case of accepting a petition the court shall issue a decision to accept the petition and issue a notice on search of a person absent from his/her residence place. If a petition for the court to take necessary measures to manage the assets of the absent person is accepted, the court’s decision to accept the petition must also decide on the application of measures to manage the assets of such person according to the provisions of the Civil Code.
Article 327.- Notices on search of persons absent from their residence places
A notice on search of a person absent from his/her residence place must contain the following principal contents:
1. Date of issuance of the notice;
2. Name of the court that issues the notice;
3. Serial number and date of the court’s decision to accept the petition for issuance of a notice on search of a person absent from his/her residence place;
4. Full name and address of the petitioner;
5. Full name, date of birth or age of the person to be searched for and the address of his/her latest residence place before his/her absence.
6. Addresses of relevant individuals or organizations for contacts by the person to be searched for or other persons having information on the person to be searched for.
Article 328.- Announcement of notices on search of persons absent from their residence places
1. A notice on search of a person absent from his/her residence place must be published on a central daily for three consecutive issues and broadcast on the national Radio or TV station for three times in three consecutive days.
2. All expenses for the publication or broadcasting of notices on search of persons absent from their residence places shall be borne by the petitioners.
Article 329.- Effect of decisions on issuance of notices on search of persons absent from their residence places
Decisions on issuance of notices on search of persons absent from their residence places prescribed in Article 326 of this Code shall automatically cease to be effective in cases where the persons to be searched for return.
Chapter XXIII

PROCEDURES FOR RESOLUTION OF PETITIONS FOR DECLARING PERSONS MISSING

Article 330.- Petition for declaring a person missing
1. Persons with related rights and interests shall be entitled to request the court to declare a person missing under the provisions of the Civil Code.
2. A petition for the court to declare a person missing must fully contain the details prescribed in Clause 2 of Article 312 of this Code.
3. The petitions must be accompanied by evidences to prove that the persons who are requested to be declared missing have been absent for two consecutive years or more without authenticated information on whether they are still alive or dead and prove that the petitioners have taken sufficient measures for search notices. In cases where the courts have issued decisions on notice on search of the persons absent from their residence places, copies of such decisions must also be submitted.
Article 331.- Preparing for petition consideration
1. Within 20 days as from the date of receiving a petition for declaring a person missing, the court shall issue a decision on a notice on search of the person who is requested to be declared missing.
2. The content of such a notice and the announcement of the notice shall comply with the provisions of Articles 327 and 328 of this Code. The time limit for such a search notice shall be four months as from the date of publishing or broadcasting the notice for the first time.
3. Within the time limit for announcing a notice, if the petitioner withdraws his/her petition or the person who is requested to be declared missing returns and requests the court to stop considering the petition, the court shall issue a decision to stop the consideration of the petition for declaring that person missing.
Article 332.- Decision to declare a person missing
1. Within fifteen days as from the expiry of the time limit for announcing a search notice, the court shall open a meeting to consider a petition for declaring a person missing.
2. The court may accept or not accept petitions.
3. In case of accepting a petition, the court shall issue a decision declaring a person missing. In cases where the court is requested to take measures to manage assets of the person who is declared missing and the request is accepted, the court’s decision must also indicate specific measures to be taken to manage assets of that person according to the provisions of the Civil Code.
Article 333.- Petitions for annulling court decisions declaring persons missing
1. In cases where a person who is declared missing returns or where there is reliable information affirming that such person is still alive, that person or persons with related rights and interests may request the court to issue a decision annulling the decision that has declared such person missing.
2. A petition for the court to annul a decision declaring a person missing must fully contain the details prescribed in Clause 2 of Article 312 of this Code.
3. Such a petition must be accompanied by evidences to prove that the person who is declared missing has returned or is still alive.
Article 334.- Decision to annul a decision that declares a person missing
1. Within 15 days as from the date of accepting a petition for annulling a decision that has declared a person missing, the court shall open a meting to consider the petition.
2. The courts may accept or not accept petitions.
3. In case of accepting a petition, the court shall issue a decision to annul the decision that has declared a person missing, deciding on the legal consequences of the annulment of the decision declaring such person missing under the provisions of the Civil Code.
Chapter XXIV

PROCEDURES FOR RESOLUTION OF PETITIONS FOR DECLARING PERSONS DEAD

Article 335.- Petition for declaring a person dead
1. Persons with related rights and interests may request the court to declare a person dead according to the provisions of the Civil Code.
2. A petition for the court to declare a person dead must fully contain the details prescribed in Clause 2 of Article 312 of this Code.
3. The petitions must be accompanied by evidences to prove that the persons who are requested to be declared dead have already died in one of the cases specified by the Civil Code.
Article 336.- Preparing for petition consideration
1. The time limit for preparing to consider a petition for declaring a person dead shall not exceed thirty days as from the date the court receives the petition; upon the expiry of that time limit, the court must issue a decision to open a meeting to consider the petition.
2. Within the time limit for preparing to consider a petition, the court shall issue a decision to stop considering the petition if the petitioner withdraws his/her petition or the person who is requested to be declared dead returns and requests the court to stop the consideration of the petition.
3. Within ten days as from the date of issuing the decision to open the meeting, the court shall open a meeting to consider the petition.
Article 337.- Decision to declare a person dead
1. The courts may accept or not accept petitions to declare persons dead.
2. In case of accepting a petition, the court shall issue a decision declaring a person dead. In such decision, the court shall determine the date on which that person died and the legal consequences of declaring a person dead according to the provisions of the Civil Code.
Article 338.- Petitions to annul court decisions that have declared persons dead
1. In cases where the person who is declared dead returns or where there is reliable information affirming that such person is still alive, that person or persons with related rights and interests may request the court to issue decision annulling the decision that has declared such person dead.
2. A petition for the court to annul a decision declaring a person dead must fully contain the details prescribed in Clause 2, Article 312 of this Code.
3. The petitions must be accompanied by evidences to prove that the persons who are declared dead have returned or are still alive.
Article 339.- Decisions to annul decisions that have declared persons dead
1. Within 15 days as from the date of receiving a petition for annulling a decision that has declared a person dead, the court shall open a meeting to consider the petition.
2. The courts may accept or not accept petitions.
3. In case of accepting a petition, the court shall issue a decision to annul the decision that has declared a person dead. In the latter decision, the court must determine the legal consequences of the annulment of the decision declaring a person dead according to the provisions of the Civil Code.
Chapter XXV

PROCEDURES FOR RESOLUTION OF CIVIL MATTERS RELATING TO COMMERCIAL ARBITRATION ACTIVITIES IN VIETNAM

Article 340.- Civil matters relating to Vietnamese commercial arbitration activities that fall under the jurisdiction of the court
1. Appointment or change of arbitrators;
2. Application, change or cancellation of provisional emergency measures;
3. Abolition of arbitral awards;
4. Other civil matters prescribed by the legislation on Vietnamese commercial arbitration.
Article 341.- Resolving procedures
Procedures for resolution of civil matters pertaining to Vietnamese commercial arbitration activities shall comply with the provisions of the legislation on Vietnamese commercial arbitration.
Part Six

PROCEDURES FOR RECOGNITION AND ENFORCEMENT IN VIETNAM OF CIVIL JUDGMENTS OR DECISIONS OF FOREIGN COURTS AND/OR FOREIGN ARBITRAL AWARDS

Chapter XXVI

GENERAL PROVISIONS ON PROCEDURES FOR RECOGNITION AND ENFORCEMENT IN VIETNAM OF CIVIL JUDGMENTS OR DECISIONS OF FOREIGN COURTS AND/OR FOREIGN ARBITRAL AWARDS

Article 342.- Civil judgments or decisions of foreign courts, foreign arbitral awards
1. Civil judgments or decisions of foreign courts are judgments or decisions on civil, marriage and family, business, commercial or labor matters, decisions on the property matters in criminal or administrative judgments or decisions of foreign courts and other judgments or decisions of foreign courts which are considered civil judgments or decisions under Vietnamese law.
2. Foreign arbitral awards mean awards that are rendered outside the territory of Vietnam or within the territory of Vietnam by foreign arbitrators selected by the parties concerned to resolve disputes arising from legal business, commercial or labor relations.
Article 343.- Principles for recognition and enforcement of civil judgments or decisions of foreign courts or arbitral awards of foreign arbitrators
1. Vietnamese courts shall consider, recognize and enforce in Vietnam civil judgments or decisions of foreign courts in the following cases:
a) Civil judgments or decisions of courts of the countries which, together with Vietnam, have signed or acceded to international treaties on this matter;
b) Judgments or decisions of foreign courts, which are recognized and enforced under Vietnamese law.
2. Vietnamese courts shall consider, recognize and enforce in Vietnam foreign arbitral awards if such awards are declared in a countries or by arbitrators of the countries which have together with Vietnam signed or acceded to international treaties on this matter.
3. Civil judgments or decisions of foreign courts or arbitral awards of foreign arbitrators may also be considered by Vietnamese courts for recognition and enforcement in Vietnam on a reciprocal basis without requiring Vietnam and such foreign countries to sign or accede to international treaties on such matter.
4. Civil judgments or decisions of foreign courts or arbitral awards of foreign arbitrators shall be enforced in Vietnam only after they are recognized and permitted for enforcement by Vietnamese courts.
5. Civil judgments or decisions of foreign courts, which are not requested to be enforced in Vietnam and against which no non-recognition requests have been filed shall be automatically recognized in Vietnam under the international treaties which Vietnam has signed or acceded to.
6. Vietnamese courts shall consider the non-recognition of civil judgments or decisions of foreign courts, which are not requested to be enforced in Vietnam, only when there are petitions for non-recognition thereof.
Article 344.- Right to request the recognition and enforcement of civil judgments or decisions of foreign courts or foreign arbitral awards
1. The judgment creditors or their lawful representatives may file petitions with Vietnamese courts for recognition and enforcement of civil judgments or decisions of foreign courts or foreign arbitral awards if the judgment debtors being individuals reside or work in Vietnam, or the judgment debtors being agencies or organizations are headquartered in Vietnam or their properties related to the enforcement of the judgments or decisions of foreign courts or foreign arbitral awards exist in Vietnam at the time when the applications are filed.
2. The involved parties, persons with related legitimate rights and interests or their lawful representatives may file their petitions requesting Vietnamese courts not to recognize judgments or decisions of foreign courts which are not requested for enforcement in Vietnam.
Article 345.- Ensuring the right to appeal or protest
The involved parties shall be entitled to appeal or the procuracies shall be entitled to protest against court decisions to recognize or not recognize civil judgments or decisions of foreign courts or foreign arbitral awards to immediate superior courts for review under the provisions of this Code.
Article 346.- Ensuring the effect of Vietnamese courts’ decisions to recognize or not recognize civil judgments or decisions of foreign courts or foreign arbitral awards
1. Civil judgments or decisions of foreign courts or foreign arbitral awards, which have been recognized and permitted by Vietnamese courts for enforcement in Vietnam shall have full legal effect like legally effective civil judgments or decisions of Vietnamese courts and be enforced according to the civil judgment-executing procedures. Civil judgments or decisions of foreign courts, which are not recognized by Vietnamese courts, shall have no legal effect in Vietnam.
2. Foreign arbitral awards which have been recognized and permitted by Vietnamese courts for enforcement in Vietnam shall have full legal effect like legally effective decisions of Vietnamese courts and be enforced according to the civil judgment-executing procedures.
Article 347.- Notices on the results of petition consideration
Vietnamese courts shall, within fifteen days as from the date of issuing decisions, notify through the Ministry of Justice the foreign courts which have rendered the judgments or decisions, the involved parties, individuals, agencies and/or organizations related to the decisions of the results of consideration of the petitions for recognition and enforcement in Vietnam of such judgments or decisions; and notify the individuals, agencies or organizations that have filed the petitions and other individuals, agencies or organizations relevant to the Vietnamese courts’ decisions of the results of consideration of the petitions for recognition and enforcement in Vietnam of foreign arbitral awards.
Article 348.- Ensuring the right to transfer money or property for execution of civil judgments or decisions of foreign courts or foreign arbitral awards
The State of the Socialist Republic of Vietnam shall ensure the transfer from Vietnam to foreign countries of money and assets for enforcement of civil judgments or decisions of foreign courts or foreign arbitral awards, which have been recognized and permitted by Vietnamese courts for enforcement in Vietnam. Such transfer of money and assets shall comply with Vietnamese laws.
Article 349.- Fees for recognition and enforcement of civil judgments or decisions of foreign courts or foreign arbitral awards
Persons who file petitions for recognition and enforcement in Vietnam of foreign courts’ civil judgments or decisions or foreign arbitral awards must pay fee amounts prescribed by Vietnamese laws.
Chapter XXVII

PROCEDURES FOR CONSIDERATION OF PETITIONS FOR RECOGNITION AND ENFOREMENT IN VIETNAM OF CIVIL JUDGMENTS OR DECISIONS OF FOREIGN COURTS

Article 350.- Petitions for recognition and enforcement in Vietnam of civil judgments or decisions of foreign courts
1. Petitions for recognition and enforcement in Vietnam of civil judgments or decisions of foreign courts must be filed to the Vietnamese Ministry of Justice and contain the following principal details:
a) Full names and addresses of residence places or work places of the judgment creditors or their lawful representatives; if the judgment creditors are agencies or organizations, the full names and addresses of their head-offices must be fully inscribed;
b) Full names and addresses of residence places or work places of the judgments debtors; if the judgments debtors are agencies or organizations, the full names and addresses of their the head-offices must be fully inscribed; in cases where the judgment debtors being individuals have no so residence places or work places in Vietnam or the judgment debtors being agencies or organizations have no head-offices in Vietnam, their petitions must also specify the addresses of the places where exist the properties and assorted assets relating to the enforcement of foreign courts’ civil judgments or decisions in Vietnam.
c) Requests of judgment creditors; where foreign courts’ judgments or decisions have been partly enforced, the judgment creditors must clearly state the executed parts and the remaining parts requested for recognition and continued enforcement in Vietnam.
3. Petitions in foreign languages must be enclosed with their Vietnamese versions which are duly notarized or authenticated.
Article 351.- Papers, documents accompanying the petitions
1. The petitions shall be accompanied by papers and documents provided for in international treaties which Vietnam has signed or acceded to. In cases where such international treaties do not so provide for or are not available, the petitions must be accompanied by duly certified copies of the foreign courts’ judgments or decisions; documents certifying that such judgments or decisions have taken effect, have not expired and should be enforced in Vietnam, except where these details have already been clearly stated in the judgments or decisions; documents certifying that copies of the judgments or decisions have been sent to the judgment debtors who have to execute such judgments or decisions. In cases where the judgment debtors or their lawful representatives are absent from foreign courts’ hearings, documents certifying that they have been duly summoned are required.
2. Papers, documents accompanying the petitions which are made in foreign languages, must be enclosed with their Vietnamese versions which are duly notarized or authenticated.
Article 352.- Transferring dossiers to courts
The Ministry of Justice must, within seven days after receiving the petitions and accompanying papers and/or documents, transfer dossiers to competent courts as provided for in Articles 34 and 35 of this Code.
Article 353.- Receiving dossiers and requesting additional explanations
1. Within three working days as from the date of receiving the dossiers transferred by the Ministry of Justice, the competent courts must accept them and notify the procuracies of the same level thereof.
2. The courts shall, within the time limit for preparing to consider the petitions, have the right to request the petitioners or the foreign courts which have rendered the judgments or decisions to explain unclear matters in the dossiers.
The written requests for additional explanations and written replies shall be sent via the Vietnamese Ministry of Justice.
3. Within seven days after receiving the written requests for additional explanations from Vietnamese courts, the Ministry of Justice shall forward such requests to the petitioners or to the foreign courts.
4. Within seven days after receiving the written explanations, the Ministry of Justice shall forward them to the Vietnamese courts which have requested such written explanations.
Article 354.- Preparation for petition consideration
1. The courts shall, within four months after receiving the petitions, make one of the following decisions, depending on each specific case:
a) To stop the petition consideration if the petitioners withdraw their petitions or the judgment debtors have voluntarily executed the judgments or decisions or the judgment debtors being individuals have died and their rights and obligations have not been inherited; or if the judgment debtors being agencies or organizations have been dissolved or have gone bankrupt and their rights and obligations have been dealt with under the provisions of Vietnamese laws;
b) To stop the petition consideration and return the dossiers to the Ministry of Justice in cases where such petitions do not fall under their jurisdiction or the judgment debtors’ addresses or the places where exist the assets related to the judgment cannot be identified;
c) To open meeting to consider the petition.
In cases where the courts request additional explanations as provided for in Clause 2, Article 353 of this Code, the time limit for petition consideration preparation shall be extended for two more months.
2. The courts must open meetings within one month after the issuance of the decisions to open meetings to consider the petitions.
The courts shall forward the dossiers to the procuracies of the same level for study within fifteen days before the opening of court meetings. At the end of this time limit, the procuracies of the same level must return the dossiers to the courts for opening meetings to consider the petitions.
Article 355.- Meetings to consider petitions
1. Petition shall be considered at a meeting conducted by a Panel consisting of three judges, one of whom shall act as the presiding judge under the court’s chief judge’s assignment.
2. The procurators of the procuracy of the same level must participate in the meeting; in cases where the procurators are absent, the meeting must be postponed.
3. The meeting shall be conducted in the presence of the judgment debtors or their lawful representatives; if they are absent for the first time for plausible reasons, the meeting must be postponed.
The petition consideration shall still proceed if the judgment debtors or their lawful representatives have filed their petitions requesting the courts to consider the petitions in their absence or if they have been duly summoned twice but are still absent.
4. The Panel shall not re-try the case but only examine and compare the civil judgment or decision of a foreign court and the papers, documents attached to the petition with relevant provisions of Vietnamese law and international treaties which Vietnam has signed or acceded to in order to make decision.
5. After having considered the petition and the attached papers and documents and listened to the opinions of the summoned people and the procurator, the Panel shall discuss and decide the case by majority.
The Panel shall have the right to issue a decision to recognize and enforce in Vietnam or not to recognize the civil judgment or decision of a foreign court.
Article 356.- Foreign courts’ civil judgments or decisions which shall not be recognized and enforced in Vietnam:
1. The civil judgments or decisions which have not yet taken legal effect under the provisions of law of the countries where the courts have rendered such judgments or decisions.
2. The judgment debtors or their lawful representatives were absent from court sessions of foreign courts because they had not been duly summoned.
3. The cases fall under the exclusive jurisdiction of the Vietnamese court.
4. There has been a legally effective civil judgment or decision on the same case, that has been made by the Vietnamese court or by the foreign court but has been recognized and permitted by the Vietnamese court for enforcement in Vietnam or the Vietnamese court has accepted and been settling the case before it is accepted by a foreign court.
5. The statutes of limitation for judgment execution have expired under the law of the countries where the courts rendered such civil judgments or decisions or under Vietnamese law.
6. The recognition and enforcement in Vietnam of the judgments or decisions of foreign courts are contrary to fundamental principles of the Vietnamese law.
Article 357.- Sending decisions of courts
As soon as decisions are issued under Articles 354 and 355 of this Code, the courts must immediately send them to the involved parties and the procuracies of the same level. If the involved parties reside overseas, the decisions will be delivered to them through the Ministry of Justice.
Article 358.- Appeal and protest
1. Within fifteen days as from the date the courts make decisions under Articles 354 and 355 of this Code, the involved parties or their lawful representatives are entitled to appeal against such decisions. In cases where the involved parties or their lawful representatives are not present at the meetings to consider the petitions, the appeal time limit shall be counted from the date they receive such decisions. The appeals must clearly state the reasons for and the requests of the appeals.
In cases where force majeure events or objective obstacles have disabled the involved parties or their lawful representatives to lodge their appeals within the above time limit, the duration in which the force majeure events or objective obstacles exist shall not be included in the time limit for appeal.
2. The procuracies of the same level or the Supreme People’s Procuracy shall be entitled to protest against court decisions prescribed in Articles 354 and 355 of this Code.
The time limit for protest by the procuracies of the same level shall be fifteen days and by the Supreme People’s Procuracy shall be thirty days, counting from the date the court make such decision.
Article 359.- Consideration of appeals, protests
1. The Supreme People’s Court shall review decisions of the provincial-level people’s courts, which are appealed or protested against, within one month as from the date of receipt of the dossiers. In case of requesting the clarification as provided for in Article 353 of this Code, this time limit shall be prolonged but must not exceed two months.
2. The composition of a Panel set up to review an appealed or protested decision shall consist of three judges, one of whom shall be assigned by the chief judge of the appeal court of the Supreme People’s Court to act as the presiding judge.
The meeting to review the appealed or protested decision shall be conducted like the meeting to consider petitions, prescribed in Article 355 of this Code.
3. The Panel shall be entitled to uphold, amend part or whole of the decision of the provincial level people’s court or to stop the consideration of the appeal or protest if the involved party withdraws his/her appeal or the procuracy withdraws its protest or if there appears one of the grounds specified at Point a, Clause 1, Article 354 of this Code.
The decision rendered by the Supreme People’s Court shall be final one and take implementation effect.
Chapter XXVIII

PROCEDURES FOR CONSIDERATION OF PETITIONS FOR NON-RECOGNITION OF CIVIL JUDGMENTS OR DECISIONS OF FOREIGN COURTS, WHICH DO NOT REQUIRE ENFORCEMENT IN VIETNAM

Article 360.- Time limit for lodging non-recognition petitions
1. Within thirty days as from the date of receipt of foreign courts’ civil judgments or decisions not requiring the enforcement in Vietnam, the involved parties, persons with related rights and obligations or their lawful representatives are entitled to file their petitions to the Ministry of Justice requesting the Vietnamese courts not to recognize such judgments or decisions.
2. In cases where the petitioners can prove that due to force majeure events or objective obstacles they can not file their petitions within the time limit prescribed in Clause 1 of this Article, the duration in which the force majeure events or objective obstacles exist shall not be calculated into the time limit for forwarding the petitions.
The restoration of the statute of limitations for forwarding petitions shall be considered and decided by the chief judges of the courts which accept the petitions.
Article 361.- Non-recognition petitions
1. A petition for non-recognition of a civil judgment or decision of a foreign court must contain the following principal details:
a) The petitioner’s name and address of his/her residence place or work place; if the petitioner is an agency or organization, the full name and head-office address of that agency or organization shall be fully inscribed.
b) Requests of the petitioner.
2. The petitions must be accompanied by valid copies of the civil judgments or decisions of foreign courts and necessary papers and documents to prove that the non-recognition petitions are well grounded.
3. The petitions and accompanying papers as well as documents in foreign languages must be enclosed with their Vietnamese versions lawfully notarized or authenticated.
4. The sending of petitions and accompanying papers to competent courts shall comply with the provisions of Article 352 of this Code.
Article 362.- Considering non-recognition petitions
1. The preparation for considering petitions and the consideration of petitions for non-recognition of foreign courts’ civil judgments or decisions shall comply with the provisions of Articles 354 and 355 of this Code.
2. The Panels for petition consideration shall be entitled to issue one of the following decisions:
a) Not recognizing the civil judgments or decisions of the foreign courts;
b) Rejecting the non-recognition petitions.
3. Foreign courts’ civil judgments or decisions which do not require enforcement in Vietnam shall not be recognized in the cases stipulated of Article 356 of this Code.
Article 363.- Forwarding courts’ decisions; appeals or protests
The forwarding of court decisions; the lodging of appeals or protests and the consideration of appeals or protests shall comply with the provisions in Articles 357, 358 and 359 of this Code.
Chapter XXIX

PROCEDURES FOR CONSIDERING PETITIONS FOR RECOGNITION AND ENFORCEMENT IN VIETNAM OF FOREIGN ARBITRAL AWARDS

Article 364.- Petitions for recognition and enforcement in Vietnam of foreign arbitral awards
1. Petitions for recognition and enforcement in Vietnam of foreign arbitral awards must be sent to the Vietnamese Ministry of Justice and contain the following principal details:
a) The judgment creditors’ full names and addresses of their residence places or work places or their lawful representatives in Vietnam;
If the judgment creditors are agencies or organizations, their full names and head-office addresses must be fully inscribed;
b) The judgment debtors’ full names and addresses of their residence places or work places; if the judgment debtors are agencies or organizations, their full names and head-office addresses must be inscribed; in cases where the judgment debtors being individuals have no residence places or work places in Vietnam or the judgment debtors being agencies or organizations have no head-offices in Vietnam, the petitions must be clearly inscribed with the addresses of the places where exist properties and assorted assets related to the enforcement in Vietnam of the foreign arbitral awards.
c) Requests of the judgment creditors;
2. Petitions in foreign languages must be accompanied by their Vietnamese versions lawfully notarized or authenticated.
Article 365.- Papers, documents accompanying petitions
1. Accompanied with petitions shall be papers and documents prescribed in international treaties which Vietnam has signed or acceded to. In cases where international treaties do not prescribe them or are not available, the petitions must be accompanied by valid copies of the foreign arbitral awards and valid copies of the arbitral agreement among the parties on the resolution of their disputes which may arise or have arisen through arbitration procedures, provided that the laws of relevant countries stipulate that they can be resolved through such procedures.
The arbitral agreement may be the arbitration terms provided for in the contract, or a separate agreement on arbitration, which has been concluded by the concerned parties after the disputes arise.
2. If papers and/or documents accompanying the petitions are in foreign languages, their lawfully notarized or authenticated Vietnamese versions must also be sent.
Article 366.- Transferring dossiers to courts
1. Within seven days as from the date of receiving the petitions as well as accompanying papers and documents, the Ministry of Justice shall transfer the dossiers to competent courts as stipulated in Articles 34 and 35 of this Code.
2. In cases where the Ministry of Justice has already transferred the dossiers to competent courts but later receives notices from competent foreign agencies saying that they are considering the cancellation of, or have already cancelled or suspended the foreign arbitral awards, the Ministry of Justice shall immediately notify the courts thereof in writing.
Article 367.- Receiving case files
1. Within three working days as from the date of receiving case files from the Ministry of Justice, the competent courts must accept the files and notify the judgment debtors being individuals, agencies or organizations as well as the procuracies of the same level thereof.
2. The courts are entitled to request the individuals, agencies or organizations that have filed the petitions to clarify obscure details in the petitions.
Article 368.- Preparation for considering petitions
1. Within two months as from the date of accepting petitions, the competent courts shall, on a case-by-case basis, issue one of the following decisions:
a) To suspend the consideration of petitions in case of receiving written notices from the Ministry of Justice saying that the foreign competent agencies are reviewing foreign arbitral awards;
b) To stop the consideration of petitions if the judgment creditors being individuals, agencies or organizations withdraw their petitions or the judgment debtors being individuals, agencies or organizations have voluntarily executed the judgments; the judgment debtors being agencies or organizations have been dissolved or gone bankrupt and their rights and obligations have been handled according to the provisions of Vietnamese law or the judgment debtors being individuals have died while their rights and obligations are not inherited;
c) To stop the consideration of the petitions in case of receiving written notices from the Ministry of Justice saying that foreign competent agencies have cancelled the foreign arbitral awards or stopped the enforcement thereof;
d) To stop the consideration of petitions and return the files to the Ministry of Justice in cases where such consideration does not fall within the courts’ jurisdiction, where the judgment debtors being agencies or organizations have no head-offices in Vietnam, where the judgment debtors being individuals neither reside nor work in Vietnam, or where it is impossible to identify the places where exist the assets related to the enforcement of the awards in Vietnam;
e) To open hearing sessions to consider petitions.
In cases where the courts request explanations, as provided for in Clause 2, Article 367 of this Code, the time limit for preparation for petition consideration shall be extended for two more months.
2. The courts must open hearing sessions to consider the petitions within twenty days as from the date of issuing the decisions to open such hearing sessions. The courts must forward the case files to the procuracies of the same level for study within ten days before the opening of the hearing sessions; at the end of this time limit, the procuracies must return the case files to the courts for opening hearing sessions to consider the petitions.
Article 369.- Hearing sessions for consideration of petitions
1. The consideration of a petition shall be conducted at a hearing session by a Trial Panel which is composed of three judges, one of whom shall act as the presiding judge under the assignment of the court’s chief judge.
2. Procurators of the procuracies of the same level must participate in the hearing sessions. In cases where they are absent, the hearing sessions must be postponed.
3. The hearing sessions shall be conducted in the presence of the judgment debtors or their lawful representatives; if they are absent for the first time for plausible reasons, the hearing sessions must be postponed.
The consideration of petitions shall still proceed if the judgment debtors or their lawful representatives request the courts to consider the petitions in their absence or if they have been duly summoned for the second time, but are still absent.
4. The trial panel shall not re-try the disputes which have already been dealt with by the foreign arbitrators but only check and compare the foreign arbitral awards and their accompanying papers or documents with the provisions of this Code, other provisions of Vietnamese law and relevant international treaties which Vietnam has signed or acceded to.
5. After considering the petitions and the accompanying papers or documents and hearing the opinions of the summoned persons and of the procurators, the trial panels shall deliberate the cases and make decisions by majority.
The trial panels may issue decisions to recognize and enforce the foreign arbitral awards or issue decisions not to recognize foreign arbitral awards.
Article 370.- Cases of non-recognition
1. Foreign arbitral awards shall not be recognized and enforced in Vietnam in the following cases:
a) Parties to the arbitral agreement have no capacity to sign such agreement under the law applicable to each party.
b) The arbitral agreement is legally invalid under the law of the country, which has been selected by the parties for application, or the law of the country where the awards were declared if the parties had not chosen law applicable to such agreement;
c) The judgment debtors being individuals, agencies or organizations were not promptly and properly notified of the appointment of arbitrators and of procedures for resolution of disputes at foreign arbitration organization, or could not exercise their procedural rights for plausible reasons;
d) Foreign arbitral awards are declared on disputes not requested by the parties for resolution or going beyond the request of the parties to the arbitral agreement. In cases where the awards can be separated into distinct parts on matters requested for resolution and parts on matters not requested for resolution at foreign arbitration organizations, the parts on matters requested for resolution may be recognized and permitted for enforcement in Vietnam;
e) The foreign arbitration personnel or the procedures for dispute resolution by foreign arbitrations do not comply with the arbitral agreement or with the law of the country where the foreign arbitral award is pronounced if the arbitral agreement does not prescribe such matters.
f) The foreign arbitral awards have not yet been legally binding on the parties;
g) The foreign arbitral awards have been cancelled or suspended from enforcement by competent bodies of the countries where the awards were pronounced or the countries whose laws have been applied.
2. Foreign arbitral awards shall also not be recognized and permitted for enforcement in Vietnam, if the Vietnamese courts deem that:
a) The disputes can not be resolved by arbitration under Vietnamese law;
b) The recognition and enforcement in Vietnam of the foreign arbitral awards run counter to the basic principles of Vietnamese law.
Article 371.- Forwarding court decisions
Immediately after issuing the decisions prescribed in Articles 368 and 369 of this Code, the courts shall send the decisions to the involved parties and the procuracies of the same level; if the involved parties stay abroad, such decisions shall be sent through the Ministry of Justice.
Article 372.- Appeal and protest
1. Within fifteen days as from the date the courts issue decisions prescribed in Articles 368 and 359 of this Code, the involved parties or their lawful representatives may lodge appeals against such decisions; in cases where the involved parties are not present at the hearing sessions to consider the petitions, the appeal time limit shall be counted from the date they receive such decisions. The appeals must clearly state the appeal reasons and requests.
In case of force majeure events or objective obstacles, which have rendered the involved parties or their lawful representatives unable to lodge their appeals within the above time limit, the duration in which the force majeure events or objective obstacles exist shall not be calculated into the appeal time limit.
2. The procuracies of the same level or the Supreme People’s Procuracy may protest against court decisions prescribed in Articles 368 and 369 of this Code.
The time limit for a procuracy of the same level to lodge a protest is fifteen days and that for the Supreme People’s Procuracy is thirty days, counting from the date the court issues the decision.
Article 373.- Considering appeals or protests
1. Within one month counting from the date it receives case files, the Supreme People’s Court shall review a provincial-level people’s court’s decision which is appealed or protested against. In cases where explanations are requested as stipulated in Clause 2 of Article 367 of this Code, this time limit shall be extended but must not exceed two months.
2. A panel for review of appealed or protested decisions is composed of three judges, including one presiding judge assigned by the chief judge of the appeal court of the Supreme People’s Court. The review sessions shall be conducted like the petition-considering sessions prescribed in Article 369 of this Code.
3. The Review Panels shall be entitled to uphold or partially or entirely amend decisions of the provincial-level people’s courts, to suspend or stop the review of appeals or protests in cases where the involved parties withdraw their appeals or the procuracies withdraw their protests, or where there appear the grounds prescribed at Points a, b and c of Clause 1, Article 368 of this Code.
The decisions of the Supreme People’s Court shall be the final ones and take implementation effect.
Article 374.- Annulling recognition and enforcement decisions
1. In cases where they receive written notices from the Ministry of Justice saying that foreign competent agencies are considering the cancellation or suspension of foreign arbitral awards which have been decided for enforcement in Vietnam, the heads of the civil judgment-executing agencies shall issue decisions to suspend the enforcement of the foreign arbitral awards and send such decisions to the courts which have issued the decisions to recognize and permit the enforcement in Vietnam of, foreign arbitral awards.
The heads of the civil judgment-executing agencies may apply guarantee measures necessary for the continued enforcement of the foreign arbitral awards if so requested by the judgment creditors being individuals, agencies or organizations.
2. Immediately after receiving the written notices from the Ministry of Justice saying that foreign competent agencies have annulled or suspended the enforcement of foreign arbitral awards, the Vietnamese courts which have issued decisions to recognize the foreign arbitral awards and permit their enforcement in Vietnam shall issue decisions to cancel such decisions and send them to the judgment-executing agencies.
Right after receiving the courts’ decisions, the heads of civil judgment-executing agencies shall issue decisions to stop the enforcement of the foreign arbitral awards.
Part Seven

ENFORCING CIVIL JUDGMENTS OR DECISIONS OF COURTS

Chapter XXX

GENERAL PROVISIONS ON ENFORCEMENT OF COURTS’ JUDGMENTS, DECISIONS

Article 375.- To be-enforced judgments or decisions of courts
1. The to be-enforced civil judgments or decisions of courts are those that already took effect, including:
a) Judgments or decisions or parts of judgments or decisions of the first-instance courts, which are not appealed, protested against according to the appellate procedures;
b) Judgments or decisions of appeal courts;
c) Cassation decisions or reopening trial decisions of courts;
d) Civil judgments or decisions of foreign courts, foreign arbitral awards, which have been recognized and permitted for enforcement in Vietnam under Vietnamese courts’ legally effective decisions.
2. The following judgments or decisions of the first-instance courts shall be enforced immediately even though they may be appealed or protested against:
a) Judgments or decisions on alimonies, remuneration, reinstatement of laborers, wages, severance allowances, social insurance or compensations for loss of lives, health or mental damage suffered by citizens;
b) Decisions on application of provisional emergency measures.
Article 376.- Grounds for enforcement of court judgments or decisions
Court judgments or decisions shall be enforced when there are the following grounds:
1. The to be-enforced judgments or decisions prescribed in Article 375 of this Code;
2. The judgment-executing decision of competent judgment-executing agency.
Article 377.- Right to request enforcement of court judgments or decisions
1. In cases where the involved parties fail to voluntarily execute judgments or decisions, the judgment creditors and the judgment debtors shall base themselves on the courts’ judgments or decisions to request the competent judgment-executing agencies to issue decisions for judgment execution.
2. The persons who request the enforcement of court judgments or decisions must file their application for judgment enforcement or directly present to the judgment-executing agencies the contents of their applications and information relevant to the judgment execution, together with judgments or decisions requested for enforcement.
Article 378.- Responsibilities of individuals, agencies and/or organizations in enforcing court judgments or decisions
1. Individuals, agencies and/or organizations shall, within the scope of their tasks and powers, have the responsibilities to fully realize the requests of executors in executing the courts’ judgments or decisions.
2. The presidents of the People’s Committees of all levels shall, within the scope of their tasks and powers, have the responsibilities to direct the coordination among the concerned agencies in enforcing the courts’ judgments or decisions in their respective localities according to law provisions on civil judgment enforcement.
The commanders of military zones and the equivalent shall, within the scope of their tasks and powers, have the responsibilities to organize the coordination among the concerned agencies in enforcing the judgments in the military zones and the equivalent.
3. Public security offices shall have the responsibility to maintain order and promptly stop acts of obstructing or resisting the enforcement of court judgments or decisions. In cases where the coercive enforcement measure is applied, the public security offices and concerned agencies shall have to coordinate in realizing such measure at the requests of the heads of the judgment-executing agencies or of the executors.
Article 379.- Inspecting and supervising the enforcement of court judgments or decisions
The people’s procuracies shall, within the scope of their tasks and powers, inspect and supervise the law observation by the involved parties, the judgment-executing agencies, executors, and individuals, agencies and organizations related to the enforcement of court judgments or decisions in order to ensure the timely, full and lawful enforcement of court judgments or decisions.
Chapter XXXI

PROCEDURES FOR ENFORCING COURTS’ JUDGMENTS AND DECISIONS

Article 380.- Granting of court judgments or decisions
When court judgments or decisions must be enforced under the provisions of Article 375 of this Code, the courts which have pronounced such judgments or decisions shall grant such judgments or decisions to the judgment creditors and the judgment debtors with the inscription: “For enforcement.”
The courts must explain to the judgment creditors and the judgment debtors their rights to claim, the enforcement time limit and their obligations to execute the judgments according to the provisions of the legislation on civil judgment enforcement.
Article 381.- Time limit for delivery of court judgments or decisions
1. For judgments or decisions to be enforced under the provisions of Point a, Clause 2, Article 375 of this Code, the courts which have pronounced the judgments or decisions must send them to the judgment-executing agencies of the same level with the courts which conducted the first-instance trials within ten days as from the date of issuance of such judgments or decisions.
For decisions on the application of provisional emergency measures, the courts which have issued such decisions must immediately transfer them to the judgment-executing agencies of the same level.
2. For judgments or decisions other than those prescribed in Clause 1 of this Article, the courts which have pronounced such judgments or decisions must transfer them to the judgment-executing agencies of the same level with the courts which conducted the first-instance trials within thirty days as from the date the judgments or decisions come into force, except otherwise prescribed by law.
3. When transferring judgments or decisions, the courts must enclose them with the records on distrainment or temporary seizures of exhibits, assets or other relevant documents, if any.
Article 382.- Explanation of court judgments, decisions
1. The judgment creditors, the judgment debtors, persons with their rights and obligations related to the enforcement of judgments or decisions of courts and the judgment-executing agencies shall have the right to request in writing the courts which have issued the judgments or decisions to explain unclear points in the judgments or decisions for execution.
Within fifteen days as from the date of receiving the written requests, the courts must make the written explanations and send them to the requestors, the procuracies of the same level and persons with their rights and obligations related to the enforcement of the court judgments or decisions.
2. The judges making the decisions or the judges presiding over the court sessions shall have the responsibility to explain the court judgments or decisions. In cases where they are no longer judges of the courts, the chief judges of such courts shall explain the court judgments or decisions.
3. The explanation of court judgments or decisions must be based on the minutes of the court sessions and the minutes of deliberation.
Article 383.- Statute of limitations for requesting enforcement of court judgments or decisions
1. Within three years as from the date a court judgment or decision takes legal effect, the judgment creditor and the judgment debtor are entitled to request the competent judgment-executing agency to issue a decision to enforce that court judgment or decision.
In cases where the time limit for fulfillment of the obligations is specified in the court judgment or decision, the three-year period shall be counted from the date the obligations are due; for court judgments or decisions to be enforced periodically, the three-year time limit shall be applied to each of period counting from the date the obligations are due.
2. In cases where persons requesting the enforcement of court judgments can prove that due to objective obstacles or force majeure events they could not request the judgments enforcement within the prescribed time limit, the duration in which the objective obstacles or force majeure events exist shall not be counted into the statue of limitations for requesting the judgment enforcement; for cases of postponing or suspending the enforcement of court judgments or decisions as stipulated in Articles 286 and 307 of this Code, the postponement or suspension period shall not be counted into the statute of limitations for requesting the judgment enforcement, except for cases where the judgment creditors agree to let the judgment debtors postpone or suspend the judgment execution.
Part Eight

HANDLING ACTS OF OBSTRUCTING CIVIL PROCEEDINGS; COMPLAINTS AND DENUNCIATIONS IN CIVIL PROCEDURES

Chapter XXXII

HANDLING ACTS OF OBSTRUCTING CIVIL PROCEEDINGS

Article 384.- Handling measures applicable to defendants and persons with related rights and obligations
In cases where defendants or persons with related rights and obligations, who did not file independent claims, have received court subpoena for the second time but are still absent from the courts or from the court sessions without plausible reasons, they shall, on a case-by-case basis, be imposed with caution or fines by the courts.
Article 385.- Handling measures applicable to persons who commit acts of obstructing the collection and verification of evidences by procedure-conducting persons
1. Those who commit one of the following acts shall, depending on the seriousness of their violations, be imposed with caution, pecuniary fines or administrative custody by courts or subject to criminal case institution:
a) Forging or destroying important exhibits, thus obstructing the resolution of cases by courts;
b) Providing false testimonies or documents;
c) Refusing to give testimonies, declining to give expertising conclusions, or refusing to provide documents;
d) Deceiving, intimidating, buying off or using force against witnesses in order to prevent them from standing as witness or compel other persons to give false testimonies;
e) Deceiving, intimidating, buying off or using force against the expert-witnesses in order to prevent them from fulfilling their tasks or to compel them to give conclusions contrary to objective facts;
f) Deceiving, intimidating, buying off or using force against interpreters in order to prevent them from fulfilling their tasks or to compel them to give untruthful, inobjective and/or wrong translations;
g) Infringing upon the honor, dignity or prestige of procedure-conducting persons; intimidating, using force against or committing other acts of obstructing the procedure-conducting persons from applying measures to verify and collect evidences as prescribed by this Code;
h) Other violation acts prescribed by law;
2. Public security offices shall have the task to enforce courts’ decisions to hold violators in administrative custody.
Article 386.- Handling measures applicable to witnesses who are intentionally not present under courts’ subpoenas
1. In cases where witnesses have been duly summoned by courts but have deliberately declined to go to courts or to be present at court sessions without plausible reasons and their absence caused obstacles to the collection and/or verification of evidences or the adjudication of cases, the courts are entitled to issue decisions to escort them to court sessions or to impose caution or pecuniary fines.
2. Decisions on escorting witnesses must clearly state the time and places of their issuance; the full names and positions of the persons issuing the decisions; the full names, dates of birth and residence places of the witnesses, the time and places for the witnesses to be present.
3. The public security offices shall have the task to enforce the court decisions to escort witnesses. Executors of such decisions must read out and explain them to the escorted persons and make records on the escort.
Article 387.- Handling measures applicable to persons who violate the internal rules of court sessions
1. Persons who commit acts of breaking the internal rules of court sessions, can, depending on the seriousness of the violations, be imposed with caution, fines, forcible departure from court rooms or administrative custody by the presiding judges.
2. Public security offices shall have the task to protect court sessions, to enforce the presiding judges’ decisions on forcible departures from court rooms or admistrative custody against persons who cause disturbance at court sessions.
3. In cases where persons violate the internal rules of court sessions to such an extent that they must be examined for penal liability, the courts shall be entitled to institute criminal cases according to criminal legislation.
Article 388.- Responsibilities of the procuracies in cases where the courts institute criminal cases.
1. In cases where the courts institute criminal cases as stipulated in Clause 1 of Article 385 and Clause 3 of Article 387 of this Code, within ten days as from the date of issuing the institution decisions, the courts shall transfer to the competent procuracies the institution decisions and documents as well as evidences substantiating the criminal acts.
2. The procuracies must consider the case institution and the initiation of criminal proceedings against the accused within the time limit prescribed by the Criminal Procedure Code. If the procuracies decline such institution and prosecution, they must notify the courts which have issued the decisions to institute the cases thereof in writing, clearly stating the reasons therefor.
Article 389.- Handling measures applicable to individuals, agencies or organizations that fail to abide by court decisions on supply of evidences to courts
1. Individuals, agencies or organizations that fail to abide by court decisions on supply of evidences they are managing or keeping may be cautioned, fined or forced to do so under court decisions.
2. Individuals or heads of agencies or organizations specified in Clause 1 of this Article can be disciplined or examined for penal liability according to law provisions.
Article 390.- Procedures, competence for imposing penalties, fine levels
Procedures and competence for imposing penalties and fine levels for acts of obstructing civil proceedings shall be prescribed by the Standing Committee of the National Assembly.
Chapter XXXIII

COMPLAINTS AND DENUNCIATIONS IN CIVIL PROCEDURES

Article 391.- Decisions and acts in civil procedures, which may be complained about
1. Individuals agencies and organizations are entitled to complain about procedural decisions or acts of civil procedure-conducting agencies or persons when they have grounds to believe that such decisions or acts are illegal or infringe upon their legitimate rights and interests.
2. For first-instance, appellate, cassation or reopening judgments or decisions of courts or other procedural decisions issued by civil procedure-conducting persons, if being appealed, protested against, complained about or petitioned, they shall be settled not according to the provisions of this Chapter but according to the provisions of corresponding chapters of this Code.
Article 392.- Rights and obligations of complainants
1. Complainants shall have the following rights:
a) To lodge complaints by themselves or through their lawful representatives;
b) To lodge their complaints at any stage of the resolution of the cases;
c) To withdraw their complaints at any stage of the resolution of the cases;
d) To receive written replies on the acceptance of their complaints; to receive the complaint-resolving decisions;
e) To have their legitimate rights or interests restored; to receive damages as provided for by law.
2. Complainants shall have the following obligations:
a) To lodge their complaints to the right persons who are competent to settle them;
b) To give truthful presentations, to supply information and documents to persons handling the complaints; to take responsibility before law for the contents of their presentations and the supply of such information and documents;
c) To strictly abide by the complaint-resolving decisions which have taken legal effect.
Article 393.- Rights and obligations of the complained persons
1. The complained persons shall have the following rights:
a) To produce evidences of the legality of their procedural decisions or acts which are being complained about;
b) To receive decisions on the resolution of the complaints about their own procedural decisions or acts.
2. The complained persons shall have the following obligations:
a) To explain their procedural decisions or acts being complained about; provide relevant information or documents when so requested by competent agencies, organizations or individuals;
b) To strictly abide by the decisions on the resolution of the complaints, which have taken legal effect;
c) To compensate for damage or address the consequences caused by their illegal procedural decisions or acts as provided for by law.
Article 394.- Statute of limitations for lodging complaints
The statue of limitations for lodging a complaint is fifteen days as from the date the complainant receives or knows the procedural decision or the act, which he/she deems illegal.
In cases where complainants cannot exercise their right to lodge their complaints within the time limit prescribed in this Article because of force majeure events or objective obstacles, the duration in which the force majeure events or objective obstacles exist shall not be counted into the statute of limitations for complaint.
Article 395.- Competence and time limit for resolution of complaints against procurators, deputy heads or heads of procuracies
Complaints about procedural decisions or acts of procurators, or deputy heads of procuracies shall be settled by the heads of such procuracies within fifteen days as from the date of receipt of the complaints. If disagreeing with the settlement results, the complainants may lodge their complaints to the immediate superior procuracies. Within fifteen days as from the date of receiving the complaints, the immediate superior procuracies must consider and settle them. The immediate superior procuracies are competent to make final resolution.
Complaints about procedural decisions or acts of the heads of procuracies shall be settled by the immediate superior procuracies within fifteen days as from the date of receiving the complaints. The immediate superior procuracies are competent to make final resolution.
Article 396.- Competence and time limit for resolution of complaints against the court clerks, people’s jurors, judges, deputy chief judges, or chief judges
Complaints about procedural decisions or acts of court clerks, people’s jurors, judges, or deputy chief judges shall be settled by the courts’ chief judges within fifteen days as from the date of receiving the complaints; if disagreeing with the settlement results, the complainants may lodge their complaints to the immediate superior courts. Within fifteen days as from the date of receiving the complaints, the immediate superior courts must consider and settle them. The immediate superior courts are competent to make final resolution.
Complaints about procedural decisions or acts of chief judges shall be settled by the immediate superior courts within fifteen days as from the date of receiving the complaints. The immediate superior courts are competent to make final resolution.
The complaint-settling decisions of the chief judges must be sent to the complainants and the procuracies of the same level.
Article 397.- Competence and time limit for resolution of complaints against expert-witnesses
Complaints about acts in civil procedures committed by expert-witnesses shall be settled by the heads of the expertising organizations which directly manage the expert-witness within fifteen days as from the date of receiving the complaints; if disagreeing with the settlement results, the complainants may complain with the heads of the immediate superior agencies managing the expertising organizations. Within fifteen days as from the date of receiving the complaints, the heads of the immediate superior managing agencies must consider and settle them. Their decisions shall be the final ones.
Article 398.- Persons who have right to denounce
Citizens are entitled to denounce to competent agencies, organizations or individuals illegal acts of competent procedure-conducting persons, which cause or threaten to cause damage to the State’s interests or legitimate rights and interests of citizens, agencies or organizations.
Article 399.- Rights and obligations of denouncers
1. Denouncers shall have the following rights:
a) To file their written denunciations or directly present denunciations to competent agencies, organizations or individuals;
b) To request that their full names, addresses and autographs be kept secret;
c) To request that the results of resolution of their denunciations be notified to them;
d) To request competent agencies, organizations or individuals to protect them from intimidation, repression or revenge.
2. Denouncers shall have the following obligations:
a) To honestly present the contents of their denunciations;
b) To clearly state their full names and addresses;
c) To take responsibility before law for untruthful denunciations.
Article 400.- Rights and obligations of the denounced persons
1. Denounced persons shall have the following rights:
a) To be notified of the denunciation contents;
b) To produce evidences to prove that the denunciation contents are untrue;
c) To have their legitimate rights and interests that have been infringed upon restored; to have their honor restored; and to enjoy compensation for the damage caused by false denunciations;
d) To request competent agencies, organizations or individuals to handle persons who gave untruthful denunciations.
2. Denounced persons shall have the following obligations:
a) To explain their denounced acts; to provide relevant information and documents when so requested by competent agencies, organizations or individuals;
b) To strictly abide by the handling decisions of competent agencies, organizations or individuals;
c) To pay damages, address consequences caused by their illegal civil procedural acts according to law provisions.
Article 401.- Competence and time limit for resolution of denunciations
1. Denunciations of illegal acts of persons competent to conduct procedures of any competent agencies shall be settled by the heads of such agencies.
In cases where the denounced persons are courts’ chief judges, deputy-chief judges, heads or deputy-heads of the procuracies, the chief judges of the immediate superior courts or the heads of the immediate superior procuracies shall have responsibility to settle the cases.
The time limit for resolution of a denunciation shall not exceed sixty days as from the date of accepting the denunciation; for complicated cases, the time limit for denunciation resolution may be longer but shall not exceed ninety days.
2. Denunciations of illegal acts which show criminal signs shall be settled according to the provisions of the Criminal Procedure Code.
Article 402.- Procedures for complaint and denunciation resolution
The procedures for resolution of complaints and denunciations shall comply with the provisions of this Chapter and other law provisions on complaints and denunciations, which are not contrary to the provisions of this Chapter.
Article 403.- Responsibilities of persons competent to settle complaints, denunciations
1. Competent agencies, organizations or individuals shall, within the scope of their tasks and powers, have the responsibility to receive and promptly and properly settle complaints or denunciations; to strictly handle violators; to apply necessary measures to prevent possible damage or losses; to ensure strict execution of settling decisions and have to take responsibility before law for their decisions.
2. Those who are competent to settle complaints or denunciations but fail to settle them, show irresponsibility in settling them or settle them illegally shall, depending on the nature and seriousness of their violations, be disciplined or examined for penal liability; if causing damage, they must pay compensations therefor according to law provisions.
Article 404.- Inspection and supervision of law observation in resolution of complaints and denunciations in civil procedures
The people’s procuracies shall inspect and supervise the law observance in the resolution of complaints and denunciations in civil procedures according to law provisions. The procuracies are entitled to request or petition the courts of the same and lower levels, responsible agencies, organizations and individuals to ensure that the settlement of complaints and denunciations is well grounded and lawful.
Part Nine
PROCEDURES FOR RESOLVING CIVIL CASES AND MATTERS INVOLVING FOREIGN ELEMENTS AND JUDICAL ASSISTANCE IN CIVIL PROCEDURES
Chapter XXXIV

GENERAL PROVISIONS ON PROCEDURES FOR RESOLUTION OF CIVIL CASES AND MATTERS INVOLVING FOREIGN ELEMENTS

Article 405.- Application principles
1. The courts shall apply the provisions of Chapter XXXIV and Chapter XXXV of this Code to settle civil cases and matters involving foreign elements. In cases where these chapters do not contain such provisions, they are entitled to apply other relevant provisions of this Code.
2. A civil case or matter involving foreign elements means a civil case or matter where at least one of the involved parties is a foreigner or an overseas Vietnamese; or civil relations between the involved parties being Vietnamese citizens, agencies or organizations but the bases for establishing, changing or terminating such relations comply with foreign laws, have arisen overseas or assets involved in such relations are located overseas.
Article 406.- Procedural rights and obligations of foreign individuals, agencies, organizations
1. Foreign citizens, stateless people, foreign agencies and organizations, international organizations (hereinafter referred collectively to as foreign individuals, agencies and organizations) are entitled to initiate lawsuits at Vietnamese courts in order to request the protection of their legitimate rights and interests when such rights and interests are infringed upon or disputed.
2. Foreign individuals, agencies and organizations, when participating in civil procedures, shall have the same procedural rights and obligations like Vietnamese citizens, agencies and organizations.
3. The Vietnamese State may apply the principle of reciprocity to restrict the corresponding procedural rights of foreign nationals, agencies or organizations of the countries where their courts restrict certain civil procedural rights of Vietnamese citizens, agencies or organizations.
Article 407.- Civil procedure-legal capacity and civil procedural act capacity of foreign citizens and stateless people
1. The civil procedure-legal capacity and civil procedural act capacity of foreign citizens or stateless people shall be determined as follows:
a) Pursuant to the laws of the countries of which the citizens bear the nationality; pursuant to Vietnamese law if citizens bear the Vietnamese nationality and a foreign nationality; pursuant to the laws of the countries where the citizens reside, if they each bears several foreign nationalities, except otherwise provided for by Vietnamese law;
b) Pursuant to Vietnamese law if the citizens permanently reside, work or live in Vietnam;
c) Pursuant to the laws of the countries where the stateless people permanently reside, work or live;
d) Pursuant to Vietnamese law if the civil procedural acts are performed in the Vietnamese territory.
2. Foreign citizens or stateless people can be recognized as having civil procedural act capacity in the Vietnamese territory, if they have no civil procedural act capacity under foreign laws but have the civil procedural act capacity under Vietnamese law.
Article 408.- Civil procedure-legal capacity of foreign agencies and organizations, and international organizations in civil procedures
1. The civil procedure-legal capacity of foreign agencies and organizations is determined under the law of the countries where such agencies or organizations were established, except otherwise stipulated by Vietnamese law.
2. The civil procedure-legal capacity of international organizations is determined on the basis of the international treaties serving as basis for the establishment of such organizations, their operational regulations, or the international treaties signed by competent Vietnamese agencies.
Article 409.- Protection of legitimate rights and interests of involved parties being foreign individuals, agencies or organizations
Involved parties being foreign individuals, agencies or organizations participating in procedures at Vietnamese courts are entitled to request lawyers to protect their legitimate rights and interests according to the provisions of Vietnamese law.
Chapter XXXV

JURISDICTION OF VIETNAMESE COURTS TO SETTLE CIVIL CASES AND/OR MATTERS INVOLVING FOREIGN ELEMENTS

Article 410.- General provisions on the Vietnamese courts’ jurisdiction to resolve civil cases and/or matters involving foreign elements
1. The Vietnamese courts’ jurisdiction to resolve civil cases and/or matters involving foreign elements shall be determined under the provisions of Chapter III of this Code, except where this Chapter contains different provisions.
2. Vietnamese courts shall settle civil cases and/or matters involving foreign elements in the following cases:
a) The defendant is a foreign agency or organization, which is headquartered in Vietnam or the defendant has a managing agency, branch or representative office in Vietnam;
b) The defendant is a foreign national or stateless person who permanently resides, works or lives in Vietnam or has assets in the Vietnamese territory;
c) The plaintiff is a foreign national or stateless person who permanently resides, works or lives in Vietnam, for civil cases or matters claiming alimonies or parent identification;
d) Civil cases or matters related to civil relations which are established, changed or terminated on the grounds prescribed by Vietnamese law, or which happen in the Vietnamese territory but involve at least one party being foreign individual, agency or organization.
e) Civil cases or matters related to civil relations which are established, changed or terminated on the grounds prescribed by foreign laws or which happen in foreign countries, but involve all parties being Vietnamese citizens, agencies or organizations and either the plaintiff or the defendant resides in Vietnam;
f) The disputes arise out of a contract with the partial or full performance thereof taking place in the Vietnamese territory;
g) The divorce cases with the plaintiffs or the defendants being Vietnamese citizens.
Article 411.- Exclusive jurisdiction of Vietnamese courts
1. The following civil cases involving foreign elements shall fall under the exclusive jurisdiction of Vietnamese courts:
a) Civil cases involving rights to properties being immoveables in the Vietnamese territory;
b) Disputes arising out of transportation contracts where the carriers have their head-offices or branches in Vietnam;
c) The divorce case between a Vietnamese citizen and a foreign citizen or a stateless person if both spouses reside, work or live in Vietnam;
2. The following civil matters involving foreign elements shall fall under the exclusive jurisdiction of Vietnamese courts:
a) Determining a legal event, if this event occurs in the Vietnamese territory;
b) Declaring that a foreign national or a stateless person has lost his/her civil act capacity or has had restricted civil act capacity if he/she resides, works or lives in Vietnam and such declaration relates to the establishment of his/her rights and obligations in Vietnam;
c) Declaring that a foreign national or a stateless person is missing or dead, if he/she is present in Vietnam at the time of occurrence of events which constitute grounds for declaring a person missing or dead, and such declaration relates to the establishment of his/her rights and obligations in Vietnam;
d) Requesting by a foreigner a Vietnamese court to declare that a Vietnamese citizen is missing or dead if such a declaration relates to the establishment of rights and obligations of that foreigner in Vietnam;
e) Recognizing that an asset in the Vietnamese territory is derelict or recognizing the current manager’s ownership over derelict immovables in the Vietnamese territory.
Article 412.- Not changing the jurisdiction of courts
Civil cases or matters which have been accepted for settlement by Vietnamese courts under this Code’s provisions on jurisdiction must be continually settled by such courts even though during the resolution process there appear changes of nationalities, residential places or addresses of involved parties or appear new details which make such civil cases or matters fall under the jurisdiction of other Vietnamese courts or foreign courts.
Article 413.- Returning the lawsuit petitions or petitions or stopping the resolution of civil cases or matters if they have been settled by foreign courts
1. Vietnamese courts shall return lawsuit petitions, applications or stop the resolution of civil cases or matters involving foreign elements if foreign courts have already issued judgments or decisions on the resolution thereof and the countries of such foreign courts and Vietnam have signed or acceded to international treaties that provide for the recognition and enforcement of civil judgments or decisions.
2. Vietnamese courts shall return the lawsuit petitions, petitions or stop the resolution of civil cases or matters involving foreign elements if foreign courts have already accepted such civil cases or matters and the foreign courts’ judgments or decisions on such civil cases or matters are recognized and enforced in Vietnam.
Chapter XXXVI

JUDICIAL ASSISTANCE IN CIVIL PROCEDURES

Article 414.- Principles for judicial assistance in civil procedures
1. Judicial assistance in civil procedures between Vietnamese courts and foreign courts shall be effected on the principle of respect for each other’s national independence, sovereignty and territorial integrity, non-interference in each other’s internal affairs, equality and mutual benefits and in compliance with the international treaties which the Socialist Republic of Vietnam has signed or acceded to and with Vietnamese laws.
2. In cases where the Socialist Republic Vietnam and foreign countries have not yet signed or acceded to international treaties prescribing the juridical assistance in civil procedures, the judicial assistance in civil precedures may be accepted by Vietnamese courts on the principle of reciprocality but must not be contrary to Vietnamese laws, international laws and practices.
Article 415.- Judicial entrustment
1. Vietnamese courts may judicially entrust foreign courts or be judicially entrusted by foreign courts to conduct a number of civil-proceeding activities under the provisions of international treaties which Vietnam has signed or acceded to or on the principle of reciprocality.
2. Vietnamese courts shall decline judicial entrustment from foreign courts in the following cases:
a) The exercise of judicial entrustment infringes upon the sovereignty of Vietnam or threatens the security of Vietnam;
b) The exercise of judicial entrustment does not fall within the jurisdiction of Vietnamese courts.
Article 416.- Formalities for judicial entrustment
1. The judicial entrustment by Vietnamese courts to foreign courts or by foreign courts to Vietnamese courts must be made in written documents, which shall be sent to competent Vietnamese agencies under the provisions of the international treaties which Vietnam has signed or acceded to or the provisions of Vietnamese law.
2. After receiving the judicial entrustment documents, the competent Vietnamese agencies must immediately send them to the Vietnamese courts or to the foreign agencies competent to receive the entrustment documents of Vietnamese courts.
Article 417.- Judicial entrustment documents
1. A judicial entrustment document must contain the following principal details:
a) The date on which the document is made;
b) Name and address of the entrusting court;
c) Name and address of the entrusted court;
d) Full name and address of the individual, agency or organization related to the judicial entrustment;
e) Contents of the entrustment;
f) Requests of the entrusting court.
2. Judicial entrustment documents must be accompanied by papers and/or documents necessary for the realization of the entrustment, if any.
Article 418.- Recognizing papers or documents made, issued or certified by foreign competent agencies
1. Vietnamese courts shall recognize papers and documents made, issued, or certified by foreign competent agencies in accordance with foreign laws or outside the Vietnamese territory if such papers or documents have been consularly legalized except otherwise provided for by international treaties which Vietnam has signed or acceded to.
2. Papers and documents made in foreign languages must be accompanied by their Vietnamese versions lawfully notarized or authenticated when being sent to Vietnamese courts.
This Code was passed on June 15, 2004 by the XI th National Assembly of the Socialist Republic of Vietnam at its 5th Session.
 

CHAIRMAN OF THE NATIONAL ASSEMBLY
Nguyen Van An

The post Law No.24/2004/QH11 of June 15, 2004 civil procedure appeared first on MP Law Firm.

]]>